CON ĐƯỜNG DÂN CHỦ (Đỗ thông Minh)
- CUỘC ĐẤU TRANH DÂN CHỦ TẠI NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM. 2- CHỦ NGHĨA TAM DÂN CỦA TÔN VĂN VÀ CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM. 3- GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM…
CON ĐƯỜNG DÂN CHỦ
1- CUỘC ĐẤU TRANH DÂN CHỦ TẠI NHẬT BẢN, TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM.
2- CHỦ NGHĨA TAM DÂN CỦA TÔN VĂN VÀ CÁC NHÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
3- GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM…
Đỗ Thông Minh, 2/2006
- - - - -
Một số khái niệm căn bản:
1- “Quân Chủ” (君主), có nghĩa vua là chủ nhân ông của đất nước. Thời Phong Kiến xưa, vua có quyền về đất đai cũng như sinh mạng người dân của mình, tiếng Anh là “Monnarchy”.
2- “Phong Kiến” là chữ viết tắt của “phong tước kiến địa” (封爵建地), có nghĩa là vua phong chức tước và cấp đất cho cai quản. Chế độ Phong Kiến tiếng Anh là “Feudal system”.
3- “Freedom / Liberty” là tiếng Anh (tiếng Pháp là “Liberté”), được người Nhật dùng hai từ đơn của Trung Quốc ghép thành “Tự Do” (自由) cũng như đã dịch các từ “dân chủ, tư bản, công sản, cộng hòa, kinh tế, triết học, diễn thuyết”… “Do” là chữ tượng hình, vẽ bầu rượu. Tự Do nguyên nghĩa là bởi chính mình, tha hồ lênh láng như rượu tràn lan. Có nghĩa là “chỉ làm theo ý mình không chịu ai bó buộc” (theo tự điển Hán-Việt của Đào Duy Anh). Thực ra, Tự Do luôn luôn cần đi kèm sự câu thúc nào đó tức luật pháp.
4- “Democratism” là tiếng Anh, được người Nhật dùng các từ đơn của Trung Quốc ghép thành “Dân Chủ Chủ Nghĩa” (民主主義). Dân Chủ là một khái niệm, là kết quả mà nhân loại đã phải thể nghiệm áp chế bằng xương máu suốt bao ngàn năm mới phát xuất ra được tư tưởng ưu việt này, đối lập lại với quan niệm Quân Chủ đã ngự trị nhân loại hàng nhiều ngàn năm.
Dân Chủ cổ đại với nghĩa quyết định theo đa số đã có từ thời La Mã - Hy Lạp cổ xưa, nhưng mới chỉ được thực thi trong giới thượng lưu, còn dân chúng không có quyền hay vẫn có chế độ nô lệ, tức chưa có Dân Quyền và Nhân Quyền (con người ta sinh ra vốn bình đẳng, có quyền sống…).
Dân Chủ hiện đại xuất phát từ Âu Châu, qua bản Đại Hiến Chương (Margna Carta = Great Charter) theo nguyên lý Hiến Pháp Chế năm 1215, Thỉnh Nguyện Quyền Lợi (Petition of Rights) năm 1628, đòi quyền cho dân và hạn chế quyền của vua... Tư tưởng Dân Chủ bùng lên mạnh từ Pháp với các nhà tư tưởng như René Decartes (1596-1650), Voltaire (1694-1778), Montesquieu (1689-1755), J. J. Rousseau (1712-1788)… và cụ thể bằng cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789.
Tuyên Ngôn Độc Lập (từ tay người Anh) của Hoa Kỳ năm 1776, Hiến Pháp Hoa Kỳ được soạn thảo năm 1787 và thực thi năm 1789, là bản hiến pháp hiện hành của Hoa Kỳ, thể hiện tinh thần Cộng Hòa và Dân Chủ của La-Hy cổ cũng như tinh thần Tự Do bình đẳng, đặc biệt là “tam quyền phân lập: lập pháp - hành pháp - tư pháp” của Montesquie… được coi là một kiệt tác về nhân quyền và dân quyền. Khi Hồ Chí Minh viết Tuyên Ngôn Độc Lập và đọc ngày 2/9/1945, cũng đã trích dẫn phần mào đầu của bản văn này và hiến pháp của Pháp.
Đông Phương từ xưa thực ra cũng đã có những quan niệm tương tự: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, cơ đồ là thứ hai, vua là điều coi nhẹ.) của Mạnh Tử, “Ý dân là ý trời”, “Hội Nghị Diên Hồng” đời nhà Trần, “Phép vua thua lệ làng”... nhưng chưa được hệ thống hóa thành thể chế.
Chủ Nghĩa Dân Chủ đã được cụ thể hóa bằng:
a- Đại Nghị Chế (Quốc Hội có 2 viện và Hạ Viện quyết định việc bầu ra Thủ Tướng) như Anh Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Úc, Đức (có cả vua hay Tổng Thống giữ vai trò tượng trưng)…
b- Tổng Thống Chế (dân chúng bầu trực tiếp người cầm đầu) như Hoa Kỳ, Đài Loan, Nga…
c- Phối hợp hai chế độ này (dân bầu Tổng Thống và Tổng Thống thường cử Thủ Tướng theo tỷ lệ thế lực trong quốc hội) như Pháp, Ý, Nam Triều Tiên và Nam Việt Nam trước năm 1975…
d- “Dân Chủ Tập Trung” (bầu quốc hội theo sự sắp xếp của đảng Cộng Sản, quốc hội cử Chủ Tịch Nước và Thủ Tướng) như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cu Ba.
Dân Chủ được hiểu đôi khi rất rộng rãi và cả lạm dụng, tuy vậy, có thể tóm gọn:
- Dân làm chủ đất nước.
- Tư do suy nghĩ và thể hiện, lấy ý kiến theo đa số, vẫn tôn trọng thiểu số.
- Cấm dân chúng cũng như nhà cầm quyền dùng bạo lực.
5- “Republic” được dịch là “Cộng Hòa” (共和), nguyên nghĩa là hòa chung. Ngày xưa là thể chế “cộng hòa hành chính”, trong đó Chu Công và Triệu Công cùng nhau chủ trì quốc chính vào năm 867 trước Công Nguyên trong 14 năm. Nhưng ngày nay, Cộng Hòa dùng để chỉ thể chế mà các cơ quan quyền lực tối cao do dân bầu ra. Đó là lý do tại sao nhiều quốc gia dùng từ này như: miền Nam Việt Nam là Việt Nam Cộng Hòa, miền Bắc Việt Nam là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945-1975) rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc...
6- “Capitalism” đều được Nhật và Hoa dịch là “Tư Bản Chủ Nghĩa” (資本主義) , một danh từ. Nhưng ở Việt Nam hiện nay “Chủ Nghĩa Tư Bản” được coi là danh từ, còn “Tư Bản Chủ Nghĩa” là tính từ. Nghĩa là “Hình thái kinh - tế xã hội phát triển cao độ dựa trên cơ sở và tôn trọng quyền sở hữu tư bản tư nhân, tự do kinh doanh và cạnh tranh…”. Chủ Nghĩa Tư Bản đặc biệt coi trọng vốn đầu tư, coi đó là nguồn gốc của phát triển xã hội.
7- “Communism” đều được Nhật và Hoa dịch là “Cộng Sản Chủ Nghĩa” (資本主義) , một danh từ. Nhưng ở Việt Nam hiện nay “Chủ Nghĩa Cộng Sản” được coi là danh từ, còn “Tư Bản Chủ Nghĩa” là tính từ. Từ này gốc là “Community” nên đúng ra phải dịch là “Chủ Nghĩa Cộng Đồng”, nhưng vì đặt nặng vấn đề sản xuất nên đã dùng chữ “Cộng Sản”. Chủ Nghĩa Cộng Sản theo nguyên nghĩa là “Hình thái kinh - tế xã hội tương lai dựa trên chế độ công cộng về tư liệu sản xuất, một giai đoạn cao của chủ nghĩa xã hội.”. Theo chủ nghĩa này, mọi người sẽ thành Vô Sản như giai cấp Vô Sản, không nắm tư liệu sản xuất, nhưng thực tế cả Cộng Sản và Vô Sản đều bao gồm chung cả tài sản.
8- “Duy Tân” (維新 = Ishin) với “duy” có nghĩa là dây ở 4 góc của cái lưới, ý nói sự "liên kết", nên Duy Tân là mọi điều đều cải cách, sửa đổi theo mới (tiếng Anh là reform, tiếng Pháp là réformer), cũng dùng trong “duy trì” (維持)... “Duy” không phải là "chỉ" 唯như trong “duy nhất (維一) , duy tâm (唯心), duy vật (唯物), duy ngã (唯我)... Tuy rằng đôi khi bị dùng lẫn lộn. Còn “Canh Tân” (更新) là đổi mới.
Hai chữ "Duy Tân", tuy thời vua Lê, đã có Hoàng Tử Duy Tân lên làm vua năm 1599, hiệu là Kính Tông, nhưng có nhiều phần chắc là những tên “Duy Tân” sau này chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng xã hội Nhật Bản sau khi thấy nước này thành công trong việc xây dựng đất nước ngang bằng với các nước Tây Phương. Vì vậy cũng xin được nói qua về Minh Trị Duy Tân (Meiji Ishin).
Ngoài ra, có các từ:
- "Đế Quốc" (帝国) nguyên là nước có vua đứng đầu, tức theo Quân Chủ, sau thành ra nghĩa nước lớn đi xâm lược nước khác để thi hành chính sách thực dân.
- "Thực Dân" (植民) nguyên là trồng người, nhưng ý là đưa người đi chiếm hay chi phối nước khác, lấy tài nguyên, bóc lột lao động hay mở thị trường để làm giàu dân nước mình.
- "Phát-Xít" (Fascism) là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, coi người mình là nhất.
- "Quân Phiệt" (軍閥) là giới quân nhân nắm chính quyền hay chi phối chính quyền.
- "Sen Đầm" là lực lượng giữ an ninh của các nước đế quốc, thực dân.
I- Đấu Tranh Dân Chủ Tại Nhật Bản
Trong cuộc Minh Trị Duy Tân (1868-1912), Nhật Bản dưới thời Thiên Hoàng Minh Trị (1852-1912), khi đó, giới trí thức và dân chúng cũng từng có đấu tranh Dân Chủ, cũng bị nhà cầm quyền đàn áp, nhưng không gay gắt như ở Trung Quốc hay Việt Nam. Sự đấu tranh này đã thúc đẩy sự sớm thành hình thể chế “Quân Chủ Lập Hiến” và thực thi Dân Chủ ngày càng nghiêm chỉnh hơn.
Năm 1853, Tướng Quân/Phủ thứ 12 là Đức Xuyên Gia Khánh (Ieyoshi Tokugawa, 1793-1853) qua đời và kế nghiệp là Đức Xuyên Gia Định (Iesada Tokugawa, 1824-1858) đang lấn át Thiên Hoàng Hiếu Minh (Komei, 1831-1867), niên hiệu Gia Vĩnh (Kaei, 1848-1854). Các Tướng Quân này tương đương với Chúa Trịnh-Nguyễn bên Việt Nam thời nhà Lê, thuộc dòng họ Sứ Quân Đức Xuyên (Tokugawa), chi phối Nhật Bản trong suốt 265 năm (1603-1868). Cùng năm đó, những phát súng cảnh cáo của Phó Đề Đốc Perry tại vịnh Đông Kinh… đã làm thức tỉnh người Nhật. Người Nhật nhận ra sự chậm tiến của mình, nên mở cửa cho Âu-Mỹ vào và quyết tâm học hỏi để theo kịp. Họ học khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn và cả tinh thần thực dân, đế quốc những điều này dẫn đến cả phúc và họa.
1- Thay Đổi Tư Duy
Từ Quân Chủ thời Phong Kiến bước qua Dân Chủ là cả một sự thay đổi tư duy tức văn hóa của một dân tộc, nên cũng cần đòi hỏi những yếu tố hoàn cảnh hay ý thức của dân chúng đủ chín mùi và thời gian. Giới trí thức Nhật đã tích cực tiếp thu, phổ biến và canh tân tư tưởng của Vương Dương Minh (王陽明 = Oyomei, vào thế kỷ thứ 15, đời nhà Minh, Trung Quốc) tức "Dương Minh Học" chủ trương "Tri hành hợp nhất (nói và làm đi đôi với nhau), Chí lương tri (nhân đức lớn của trời đất)” cũng như khai phát “Vạn vật nhất thể" có từ thời Lão Tử (thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái…) và Chu Hy (tức là Thiên địa vạn vật nhất thể)... Tất nhiên, trong giai đoạn chuyển tiếp thường diễn ra sự tranh chấp giữa hai phái bảo thủ và cấp tiến và đôi khi có lúc bị thoái trào.
Rất nhiều nhân vật thuộc phái cải lương xuất thân là các Nho Gia phái Dương Minh Học. Một số người mở các trường tư gọi là "Shigakko" (Tư Học Hiệu), có khi lên đến cả ngàn học trò. Thời ấy, các trường này có khi quy tụ nhiều võ sĩ, nên họ học chữ nghĩa và tập cả quân sự, sau trở thành nhóm theo hoặc chống lại quân của Thiên Hoàng.
Thời đó, nổi bật nhất là Bác Sĩ kiêm Học Giả Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch Dụ Cát, 1835-1901), nhà tư tưởng canh tân lừng danh, được coi là Voltaire (nhà cách mạng tư tưởng Pháp) của Nhật. Ông là người đã mở đại học tư Keio Gijuku đầu tiên ở Nhật, đã viết khoảng 15 tác phẩm, mà ba tác phẩm tiêu biểu là Văn Minh Luận Khái Lược (Bunmeiron No Gairyaku) năm 1875 và Khuyến Học (Gakumon No Susume, trực dịch là Học Vấn Khuyến, viết trong thời gian 1872-1876, giai đoạn đầu đã in khoảng 3,5 triệu bản trong lúc dân Nhật thời đó mới có khoảng 35 triệu người, coi như sách gối đầu giường của người Nhật. Đã có hai bản dịch ra tiếng Việt của ông Phạm Hữu Lợi từ bản tiếng Nhật và của Giáo Sư Chương Thâu dịch từ bản dịch chữ Hán. Cụ Phan Bội Châu có lẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng nên cũng đã viết cuốn "Khuyến Học"), Phúc Ông Tự Truyện (Fukuo Jiden, viết năm 1898-1899, do chị Phạm Thu Giang đang học khóa trình Tiến Sĩ Lịch Sử tại Nhật dịch)... Hình của ông nay được in trên tiền giấy mệnh giá cao nhất 10.000 Yen.
Fukuzawa Yukiichi
Trong Văn Minh Luận Khái Lược, ông đã viết:
"Để bảo vệ độc lập (Nhật Bản), không còn cách nào ngoài con đường tiến đến văn minh. Lý do duy nhất để người dân nước ta tiến đến văn minh là để bảo vệ độc lập quốc gia.".
Ông chủ trương mỗi người dân phải có tinh thần độc lập thì quốc gia mới độc lập được, nếu người dân ỷ lại vào lãnh đạo, chỉ thành phần lãnh đạo lo việc nước thôi thì không đủ. Ông định nghĩa tinh thần độc lập ấy như sau:
"- Biết tự mình lo toan cho chính mình mà không nhờ người khác.
- Biết phân biệt sự vật phải trái một cách đứng đắn mà không ỷ lại vào trí khôn của người khác.
- Biết tự mình dùng tâm lực lao động để nuôi lấy chính mình mà không cậy vào sức người khác.
Nếu mỗi người không có tinh thần độc lập và chỉ trông cậy người khác, vậy thì ai là người đứng ra gánh vác trách nhiệm trong nước đó.".
"Phương sách giữ gìn độc lập không thể tìm đâu ra ngoài văn minh."
Theo ông, cách giữ nước hay nhất là:
"Làm cho đất nước tràn đầy không khí tự do độc lập, không phân biệt sang hèn, trên dưới, mỗi người gánh vác trách nhiệm quốc gia, người tài kẻ ngu, người sáng kẻ mù, nhất nhất phải ráng sức gánh vác bổn phận của người dân nước đó.".
Ông còn cực đoan hơn khi chủ trương cương quyết bảo vệ tự do, độc lập như sau:
"Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc (độc lập, tự do) thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chỉ có một số quan chức chính phủ lộng quyền mà chúng ta lại phải sợ sao?
... Đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.".
Đông-Tây có những giá trị đạo đức và quan niệm kinh tế khác nhau, đều có ưu và khuyết điểm riêng. Tuy nhiên, nếu đánh giá hai nền văn minh Đông-Tây trên tiêu chuẩn "phú quốc cường binh và hạnh phúc của tuyệt đại đa số", ông cho rằng các nước Đông Phương đi sau các nước Tây Phương một bước. Sở dĩ đi sau, vì:
"Nền giáo dục Nho Giáo ở Đông Phương, về hữu hình không để ý tới việc bồi dưỡng lối suy nghĩ khoa học và về vô hình không chú trọng đến tinh thần độc lập của mỗi cá nhân.".
Ông coi sự suy yếu của Trung Quốc thời đó là một người thầy phản diện, tức lấy đó làm gương mà tránh. Trong cuộc đấu tranh để giữ gìn độc lập, ông coi việc ngoại giao là quan trọng nhất. Kẻ thù nguy hiểm nhất của Nhật khi đối đầu với Tây Phương: "Không phải là quân sự, mà là thương mại, không phải là vũ lực mà trí lực.". Nên ông chủ trương học để theo kịp Tây Phương. Theo ông giáo dục đứng đắn sẽ nâng cao dân trí, tiến tới văn minh là phương sách giữ gìn độc lập.
"Đưa đất nước tiến lên đài văn minh là một biện pháp, một chiến lựơc vừa giáo dục, vừa kinh tế, vừa quốc phòng."
Muốn vậy phải khách quan đánh giá điểm mạnh và yếu của mình, mở rộng tầm mắt học hỏi, thu hóa cái hay của người. Ông là người đầu tiên diễn thuyết công khai về ý nghĩa của cuộc thương thuyết ngoại giao sau chiến tranh. Và ông chính là người đã dịch từ "speech" là "diễn thuyết", lấy hai từ chữ Hán có sẵn ghép lại.
Về nước Nhật, ông chủ trương thoát khỏi Châu Á, theo Châu Âu, được coi là người thúc đẩy nước Nhật tiến bộ. Nhà tư tưởng Nhật, theo chủ thuyết Darwin Xã Hội, sinh tồn tự nhiên giữa các quốc gia, tức việc “cá lớn nuốt cá bé” là điều tự nhiên, chứ không câu nệ đồng văn, đồng chủng, đồng châu. Cho rằng Nhật Bản có đủ tầm vóc, nên thoát khỏi Châu Á, theo Châu Âu, bành trướng mở rộng quốc quyền, ủng hộ chiến tranh Nhật-Thanh (nhà Thanh của Trung Hoa). Ông rất được người Nhật kính trọng vì công lao về mặt giáo dục...
Cụ Phan Bội Châu cũng phần nào chịu ảnh hưởng tư tưởng về sự cầu tiến của ông.
2- Cải Cách Chính Trị
Năm Minh Trị thứ 2 (1869), Thiên Hoàng Minh Trị chọn thành Edo (江戸, Giang Hộ) làm hoàng cung, thiên đô từ Kyoto ở phía nam lên và đổi thành Tokyo (Đông Kinh, bình nguyên lớn nhất, dân cư đông nhất, kinh tế phát triển nhất). Từ năm thứ 5 tới năm thứ 18, ông đi vòng khắp nước tổng cộng sáu lần để nắm biết tình hình dân chúng.
Thiên Hoàng Minh Trị ra lệnh cho ông Ito Hirobumi (Y Đằng Bắc Văn, sau làm Thủ Tướng và bị một người Triều Tiên ám sát để trả thù việc Nhật Bán sát nhập Triều Tiên từ năm 1910 đến 1945)... soạn thảo hiến pháp, chính ông cũng tích cực tham gia các buổi thảo luận. Công bố chế độ Quân Chủ Lập Hiến (bãi bỏ chế độ phong kiến và chế độ đặc quyền của các lãnh chúa) năm Minh Trị thứ 23 (1890), nhân lễ khai mạc Quốc Nghị Hội lần thứ nhất. Khi đó, ở Âu Châu mới chỉ có vài nước theo chế độ này. Thực ra, năm 604, thời Thánh Đức Thái Tử (Seitoku Taishi), đã từng công bố Hiến Pháp 17 Điều (Kenpo Junanajo).
Khi lên ngôi năm 1868, Thiên Hoàng Minh Trị đã hứa xây dựng thể chế nghị viện, nhưng rồi mặt khác ông lại được tôn sùng quá mức nên có lúc các tư tưởng Dân Chủ bị nhận chìm. Đầu thập niên 1870, phong trào đòi dân quyền bùng lên, đảng chính trị đầu tiên là "Ái Quốc Đảng" (Aikokuto) được thành lập năm 1874, rồi "Tự Do Đảng" (Jiyuto) thành lập năm 1881...
Nhiều cuộc vận động dân quyền như Phong Trào Tự Do Dân Quyền (Jiyu Minken Undo) khởi đầu năm 1874 và ngày 5/4/ 1880 bị đàn áp nặng nề vì lý do tập hợp không có phép trong khi đang tranh chấp về việc soạn luật cho phép cảnh sát đàn áp hay không, khoảng 400 người bị bắt, một số bị tù.
Vụ Chichibu (Trật Phu) nổi dậy với hàng ngàn dân chúng mà trọng tâm là 300 đảng viên Tự Do Đảng, họ đã vũ trang đòi giảm thuế và hoãn nợ kéo dài từ ngày 31/10 đến 9/11/1884 và lan rộng các tỉnh Nagano (Trường Dã), Saitama (Kỳ Ngọc), Gunma (Quần Mã). Họ bị cảnh sát, hiến binh triều đình... đàn áp, khiến có khoảng 25 người bị tử thương, hơn 4.000 người bị bắt và bị kết án, trong số đó có 7 người bị tử hình...
Tuy bị đàn áp, nhưng các phong trào này cũng đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sớm thực thi dân chủ, nên năm 1889 luật bầu cử quốc hội gần tương tự như bên Anh được ban hành. Lúc đầu luật bầu cử hạn chế, chỉ dành cho phái nam trên 25 tuổi và phải là người đóng một mức thuế nào đó, nên cử tri thường là giới trí thức và thương gia thành thị. Kết quả là chỉ có khoảng 450.000 cử tri trên tổng số 40 triệu dân thời đó, dần dần càng sau này mới mở rộng hoàn toàn cho mọi người. Số Dân Biểu cũng vậy, từ 300 người năm 1890, sau này tăng thành khoảng 500.
Cuộc tổng tuyển cử Hạ Viện đầu tiên được tổ chức năm 1890, tuy nhiên trong giai đoạn đầu, quyền hạn của cơ quan này vẫn còn giới hạn vì phải chia sẻ quyền lập pháp với Thượng Viện tức Viện Quý Tộc là các thành viên của Hoàng Tộc do Thiên Hoàng bổ nhiệm cũng như chia sẻ với chính Thiên Hoàng. Thiên Hoàng có quyền triệu tập cũng như giải tán Hạ Viện. Hạ Viện có quyền lập pháp nhưng phải được Thiên Hoàng ban hành... chưa kể Thủ Tướng và nội các đã được lập ra trước đó, từ năm 1885. Hạ Viện chỉ họp khoảng 60 ngày trong một năm, thời gian không họp, Thiên Hoàng có thể ra các sắc lệnh...
Qua thời Thiên Hoàng Đại Chính (Taisho, 1912-1926) và Chiêu Hòa (Showa, 1926-1989), dân quyền càng lúc càng được mở rộng hơn, nhưng cũng có khi vì chiến tranh như thời Thiên Hoàng Chiêu Hòa, thì giới quân phiệt lấn áp chính giới và giới hạn quyền tự do của người dân, đàn áp các đảng đối lập như Xã Hội và cấm đoán chủ nghĩa Cộng Sản... Tuy vậy, nhìn chung, thể chế dân chủ ở Nhật vẫn là tiến bộ nhất so với các quốc gia Đông Á hay nhiều nơi khác trên thế giới, khi đó vẫn còn u mê với triều đại phong kiến.
3- Minh Trị Duy Tân
Công lao lớn nhất của Thiên Hoàng Minh Trị (Meiji Tenno) là cuộc cách mạng Duy Tân, nên thường được gọi là Minh Trị Duy Tân, đưa ra năm 1868, đã nhanh chóng đưa nước Nhật Bản từ lạc hậu tiến ngang hàng với các cường quốc.
Trong công cuộc vận động Duy Tân có "Bunmei Kaika" (Văn Minh Khai Hóa", kêu gọi cận đại hóa, Tây Dương hóa... với chủ trương "Wakon Yosai" (Hòa Hồn Dương Tài, tức Hồn Nhật Bản với phương thức Tây Phương). Một chủ trương táo bạo khác nữa là "Seiyo o manabi, Seiyo nioitsuki, Seiyo o oinuku" (Học hỏi Tây Phương, bắt kịp Tây Phương, đi vượt Tây Phương.). Họ dám nghĩ như thế và thực tế là họ đã làm được như thế trên rất nhiều lãnh vực.
Tích cực cho sinh viên du học và du nhập văn minh Âu Châu, đồng thời bảo tồn đức dục dân tộc để phát triển đất nước. Khi đó, các nhà lãnh đạo ý thức rõ mục đích, tập trung năng lực vào làm. Phân biệt rõ điều có thể và không thể làm. Phán đoán có tính cách hiện thực. Có thể tóm lược đường hướng duy tân vào ba điểm chính:
1- Coi trọng giáo dục.
2- Độc lập văn hóa.
3- Trọng dụng nhân tài.
Họ chú trọng học ngoại ngữ làm phương tiện tiếp thu văn hóa và văn minh Âu-Mỹ. Năm 1874, Nhật Bản có 91 trường dạy tiếng nước ngoài với tổng số khoảng 13.000 người theo học.
Theo Năm thứ 15, sắc lệnh lập chế độ trưng binh được ban hành, ghi rõ Thiên Hoàng là "Đại Nguyên Suý" (Daigensui). Tuy với hiến pháp quân chủ và đường lối cai trị đã cởi mở rất nhiều so với các nước Á Châu thời đó, nhưng thành công của cuộc Duy Tân cũng mở đường cho chính sách giáo dục sùng bái Thiên Hoàng. Sau này, lòng yêu nước và sẵn sàng chết vì Thiên Hoàng bị chính giới và quân phiệt lợi dụng trong chiến tranh và nhất là Thế Chiến Thứ 2, để rồi thất bại ê chề và làm tan nát đất nước. Sau Thế Chiến Thứ 2, Nhật Bản đã bãi bỏ lối giáo dục sùng bái Thiên Hoàng và lòng người hướng tới các Thiên Hoàng không còn quá sùng tín như xưa nữa.
Người Nhật vốn trọng văn hóa và truyền thống, nên ban đầu cuộc cách mạng Duy Tân thực ra cũng bị dân chúng âm thầm chống đối ở mức độ nào đó vì họ không quen với sự thay đổi quá lớn và toàn diện như vậy. Sự lấn át của văn minh và văn hóa Tây Phương khiến văn minh và văn hóa đặc thù của Nhật như bị đẩy đến chỗ phá sản.
Như việc kêu gọi cắt búi tóc kiểu Nhật thường thấy ở các võ sĩ đạo hay võ sĩ Sumo gọi là "chonmake". Giới võ sĩ cho rằng búi tóc đó tượng trưng cho linh hồn của người Nhật, nếu cắt đi thì không còn là Nhật nữa. Đã có những cuộc nổi loạn lên tới 8.000 người, và 6 người bị kết án tử hình...
Ông Tomomi Iwakura (Nham Thương Cụ Thị) là Công Khanh được cử làm Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền đi Hoa Kỳ thương thảo yêu cầu xóa bỏ hiệp ước bất bình đẳng trước đó (mãi tới năm 1911, khi Nhật hùng mạnh lên các đế quốc cũ mới chịu bỏ những hiệp ước này), khi qua tới thủ đô Washington ngày 21/1/1872, ông thấy đi giầy Tây nhưng vẫn mặc áo Kimono đàn ông và búi tóc thì không hợp nên cũng đã quyết định cắt tóc, vì theo ông phải dứt khoát cải cách theo kịp đà văn minh, điều này đã gây chấn động lớn trong dư luận Nhật. Từ đó, các quan lại thi nhau cắt tóc. Chính nhiều bà cũng phản đối việc các ông cắt tóc, có ông đi cắt tóc, về bị vợ bỏ! Các bà chung quanh Minh Trị Thiên Hoàng cũng phản đối, khiến các hạ thần rất khó khăn trong việc thuyết phục, nhưng rồi ngày 20/3/1873, vua Minh Trị quyết định cắt tóc làm gương, thế là dân chúng rủ nhau đi cắt tóc.
Rất nhiều võ sĩ đạo từng ủng hộ Minh Trị Thiên Hoàng dẹp các Sứ Quân, sau đó đã quay ra chống lại để bảo vệ truyền thống dân tộc, nhất là khi nhà cầm quyền đưa ra luật cấm mang kiếm.
- - - -
- Phim "The Last Samurai" thực hiện bởi Hoa Kỳ và trình chiếu năm 2004 với chi phí khoảng 140 triệu Mỹ Kim, do nam tài tử Nhật là Ken Watanabe (Độ Biên Khiêm) đóng vai người võ sĩ đạo cầm đầu hàng ngàn quân nổi loạn cùng với nữ tài tử Sanada Hiroyuki (Chân Điền Quảng Chi) vai vợ Đại Úy Nathan Algren (nam tài tử Tom Cruise đóng). Algren bị bắt khi giúp triều đình chống Samurai, nhưng cũng vì kính phục tinh thần samurai mà đã tự biến thành Samurai. Phim đã nói lên sự tranh chấp kịch liệt giữa cũ và mới trong giai đoạn này và như vậy cuộc cải cách cũng đã phải trả bằng giá sinh mạng nhiều người. Cuối cùng phe chống đối bị coi là nổi loạn, hầu hết vẫn dùng kiếm và súng trường cổ điển, đã chiến đấu đến người cuối cùng "The Last Samurai". Họ bị dẹp tan, lòng dũng cảm và yêu nước đã không thắng được những vũ khí tối tân của triều đình do Hoa Kỳ cung cấp.
Quân triều đình thắng lợi trong cuộc dẹp nội loạn ở tây-nam và hai cuộc chiến tranh với nhà Thanh (Thanh Triều) của Trung Hoa năm 1894 và 1895, với Nga năm 1904 (tiêu diệt hạm đội Nga tại biển Lữ Thuận đông-bắc TrungHoa) và năm 1905 (tiêu diệt hạm đội Nga tại biển Đối Mã ở giữa Nhật Bản và Triều Tiên). (Ngay sau đó, năm 1905, cụ Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính lên đuờng sang Nhật Bản.) Năm 1910, Nhật Bản còn tham gia Bát Quốc Liên Quân tấn công Bắc Kinh, khiến triều đình Từ Hy Thái Hậu phải bỏ kinh thành mà chạỵ
Minh Trị Thiên Hoàng tại vị được 45 năm, mất ngày 30/7/1912. Lễ đại táng cử hành ngày 13/9, tới tối đó thì vợ chồng Đại Tướng Lục Quân Maresuke Nogi (Nãi Mộc Kỳ Điển)... đã tự sát bằng dao để chết theo.
Phần lớn người Nhật và Việt... đều nghĩ "Minh Trị Thiên Hoàng một đấng minh quân ai bì!". Ông lên ngôi lúc 15 tuổi, lại sớm lấy vợ, tổng cộng có tới 5 bà... thì ít nhất trong giai đoạn đầu chưa thực sự hiểu việc triều chính, vận hành quốc gia. Triều đại phong kiến lúc đó, sau khi thu hồi quyền hành từ tay Sứ Quân cuối cùng của dòng họ Tokugawa (Đức Xuyên) đã cố gắng đề cao Thiên Hoàng để phục hồi uy tín và tập trung lòng dân. Thực ra công lao trong cuộc Minh Trị Duy Tân chính là các quần thần, mà đa số là đệ tử của ông Yoshida Shoin (Cát Điền Tùng Âm, 1830-1859), một Thầy Đại Nho theo chủ trương của Vương Dương Minh. Thêm nữa, tư tưởng Vương Dương Minh đã vào và được truyền bá khá rộng rãi ở Nhật khoảng 400 năm, là nền tảng không thể thiếu cho cuộc cải cách.
Ông Yoshida Shoin từng là một phiên binh của Mạc Phủ, giáo quan quân sự (binh học), chí sĩ của phái Sonjo (Tôn Nhưỡng). Năm 1849, lúc 20 tuổi, ông đã tuần du duyên ngạn Choshu (Trường Châu, thuộc tỉnh Yamaguchi (Sơn Khẩu) ở cực nam Bản Đảo), năm 1850, tuần du Kyushu (Cửu Châu), năm 1851, theo Phiên Chủ đi Edo (Giang Hộ, tức Tokyo ngày nay) học kinh tế, quân sự, kiếm...
Do tự ý đi Tohoku (Đông Bắc), ông đã bị tước đoạt sĩ tịch (võ sĩ của Phiên), nhưng chính nhờ vậy mà từ đó ông được tự do đi đó đây. Tháng 6/1953, ông tới cảng Uraga (Phổ Hạ) xem hạm đội Hắc Thuyền của Hoa Kỳ do Phó Đề Đốc Perry chỉ huy, ông nhận rõ hơn sự mâu thuẫn trầm trọng của thể chế Mạc-Phiên, tức giữa Mạc (Chúa) ở trên với các Phiên (Sứ Quân) ở dưới và chế độ Mạc Phủ không còn có thể tồn tại lâu dài nữa. Khi thấy hạm đội Nga ở đậu ở Nagasaki, ông cũng đã muốn lên nhưng không được. Tháng 3/1854, khi Perry lại dẫn hạm đội lớn hơn tới Shimoda (Hạ Điền) uy hiếp, ông tìm cách lên tàu nhưng không thành công, vì chuyện này ông bị kết tội và bắt giam vào ngục cho tới tháng 12/1854.
Năm 1856, ông đã viết tác phẩm "Ikkun Banmin Ron" (Nhất Quân Vạn Dân Luận), nói về chuyện mọi người bình đẳng trước Thiên Hoàng và tận lực với Thiên Hoàng. Tháng 11/1857, ông mở trường tư Matsushitamura Jiku (Tùng Hạ Thôn Thục) và làm Hiệu Trưởng. Đó chính là nơi ông đã đào tạo khoảng 80 người, đa số là nhân tài, là động lực hỗ trợ chính cho cuộc Minh Trị Duy Tân. Tháng 7/1958, ông đã đưa đề án về việc ký hiệp ước Thông Thương Nhật-Mỹ, đề xướng "Tobaku Ron" (Thảo Mạc Luận) tức loại trừ chế độ Mạc Phủ cũng như lập kế hoạch ám sát Phiên Chủ Akikatsu Manabe (Gian Bộ Thuyên Thắng).
Ông thất bại trong việc lập kế hoạch hành động trực tiếp đối đầu với Mạc Phủ, khi Mạc Phủ toan ký hiệp ước vi sắc (ichoku) không có sự cho phép của Thiên Hoàng Komei (Hiếu Minh, cha của Minh Trị) với Hoa Kỳ, nên tháng 12/1958 ông bị bắt giam. Trong thời gian tuyệt vọng đó, ông đã viết "Somo Kukki" (Thảo Mãng Quật Khởi) là cuộc quật khởi của thảo dân, với chủ trương xây dựng một "Niềm Tự Hào Nhật" (Pride Of Japan). Tháng 6/1959, ông bị giải giao về Edo và bị lên án tử hình ngày 25/10. Khi đó, ông đã viết di chúc gọi là "Ryukon Roku" (Lưu Hồn Lục, ghi để lại hồn). Hôm sau ông bị đem ra chém, năm đó mới có 30 tuổi.
Từ trước cuộc Minh Trị Duy Tân, vào đầu thời kỳ Giang Hộ (1603-1868), người Nhật đã có trình độ khoa học kỹ thuật khá hơn các nước chung quanh trên một số lãnh vực. Suốt thời Giang Hộ, động lực phát triển chính là tầng lớp người chịu ảnh hưởng Nho Học giữ vai trò chỉ đạo và Võ Sĩ Đạo giữ vai trò tạo tác. Đặc biệt là từ thời này, họ đã biết từ bỏ việc phân chia giai cấp, tất nhiên không thể triệt để như thời hiện tại. Chính sự từ bỏ phân chia giai cấp này làm người dân bình thường được tiếp cận nhiều tin tức hơn, kích động tinh thần học hỏi của họ và làm nâng cao dân trí. Tuy vẫn còn hạn chế, nhưng người dân đã bắt đầu có hiểu biết và tiếng nói, thay vì chỉ biết tự bế và vâng lời giai cấp thống trị như từ trước. Người dân thường đã biết đóng những chiếc thuyền thật tốt và tuy theo chính sách bế môn tỏa cảng nhưng sau đó họ cũng đã học hỏi kỹ thuật mới và có những nhà máy nhỏ.
Sau Thế Chiến Thứ 2, theo hiến pháp mới, Nhật Hoàng hoàn toàn không còn quyền lực như trước trước nữa, mà chỉ có tính cách tượng trưng.
- - - - -
- Thế nên, nếu người Việt trách triều đình nhà Nguyễn và quần thần thời bấy giờ quá u mê thì cũng không công bình lắm, vì hầu như cả nước u mê chứ có riêng ai! Vì ở Việt Nam đã không có được yếu tố chuẩn bị tư duy quan trọng và tối cần thiết cho một cuộc canh tân. Và phải chăng, ngay cả bây giờ, đã cả trăm năm qua, đã bước vào đầu thế kỷ thứ 21 rồi mà tình hình cũng vẫn vậy!?
Nước Nhật hoang tàn sau Thế Chiến Thứ 2, để vực dậy, ông Masaru Ibuka (1908-1997), người đồng sáng lập công ty điện tử Sony với Akio Morita (1921-1999) và được coi là trái tim triết lý (kinh doanh) của công ty, đã nói trong bài diễn văn kỷ niệm thành lập năm 1946: "Phải hết sức dùng công nghệ, kỹ thuật để góp phần vào sự phục hưng tổ quốc chúng ta!", “Không thể thiếu nhân đức trong việc đào tạo người.”. Ông Morita là người đặc biệt chủ trương lối học thực dụng chứ không phải bằng cấp. Là đồng tác giả với ông Shintaro Ishihara (cựu Dân Biểu, đương kim Đô Trưởng Tokyo) viết cuốn “Nhật Bản Nói Không! (với Hoa Kỳ)” (Japan Say No!) gây chấn động thế giới.
Kinh nghiệm thành công và thất bại của Nhật Bản đều là kinh nghiệm quý báu cho chúng ta.
II- Đấu Tranh Dân Chủ Tại Trung Quốc
1- Bối Cảnh Lịch Sử
- Các cường quốc uy hiếp Trung Quốc
… 1840, quân Anh tiến vào Đại Cô Khẩu, uy hiếp Bắc Kinh với ý định chiếm vùng đông bắc Trung Quốc, Năm 1960 liên quân Anh-Pháp chiếm Đại Cô Khẩu... Năm 1900, Bát Quốc Liên Quân đổ bộ Đại Cô Khẩu… Sau đó, Hoa Kỳ, Đức, Nga… và cường quốc mới là Nhật đều nhào vào chia cắt Trung Quốc.
- Chiến Tranh Nha Phiến Năm 1840-1842
Nước Anh mua của Trung Quốc nhiều đồ gốm, trà và lụa… nhưng bán được ít, nên họ muốn đem bạch phiến trồng ở Ấn Độ. Giới trí thức và dân chúng Trung Quốc bị hủy hoại dần bởi chất độc hại này. Một số người Trung Quốc thức tỉnh, kêu gọi triều đình nhà Thanh chống lại. Ông Lâm Tắc Từ đã cho lệnh chặn bắt các tàu Anh chở bạch phiến trên sông Châu Giang, thuộc Quảng Đông và đem đốt, vì vậy đã bùng nổ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến mà cao điểm là trận hải chiến năm 1942. Nhà Thanh bị thua, phải bồi thường và ký hiệp ước bất bình đẳng, nhượng nhiều quyền lợi cho Anh.
- Chiến Tranh Nhật-Thanh Năm 1894-1895 (lần thứ 1)
Nhật Bản học được khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn và cả tinh thần thực dân của Âu-Mỹ. Do đó, Nhật Bản có tham vọng bành trướng qua Triều Tiên, vốn thuộc sự chi phối của Trung Quốc, mở đầu cuộc chiến thứ nhất giữa hai nước kể từ khi Mông Cổ đưa quân qua đánh Nhật hai lần năm 1274-1275 và 1281. Hạm đội của hải quân Nhật Bản đã liên tiếp đánh thắng hạm đội của nhà Thanh hai lần trong thời gian 7/1904 tới 4/1905 tại Phong Đảo và Hoàng Hải. Lục quân Nhật cũng đánh thắng ở Thành Hoan, Nha Sơn, Bình Nhưỡng, Áp Lục, Lữ Thuận, Sơn Đông... Nhà Thanh do Từ Hy Thái Hậu chi phối khi đó vẫn lo xây cung điện nghỉ mát thay vì xây dựng lực lượng hải quân. Từ đó, Nhật cũng lập tô giới tại Thượng Hải bên cạnh tô giới của ngũ cường Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nga, Đức.
- Mậu Tuất Chính Biến Năm 1898
30 năm sau Minh Trị Duy Tân, cuộc đấu tranh Cách Mạng Duy Tân do Khang Hữu Vi lãnh đạo, thu chữ ký của khoảng 1.000 đệ tử là các Cử Nhân, Tiến Sĩ đề nghị 6 điều cải cách:
1- Cải cách giáo dục, mở trường dạy từ thấp lên cao.
2- Bỏ lối thi cũ.
3- Cải cách hành chính, bỏ bớt quan lại.
4- Mở công, nông, thương cục, tiền tệ cục.
5- Cải cách quân đội.
6- Người dân ai cũng có quyền gởi ý kiến lên nhà vua.
Đề nghị này được sự đồng tình của vua Quang Tự nên nhà vua trao cho nhóm Khang Hữu Vy, Đàm Tự Đồng, Lương Khải Siêu… toàn quyền làm cuộc cải tổ ngay tại Bắc Kinh. Họ đã nắm quyền được 100 ngày (4-8/1898), nhưng sau đó bị quân do phe Từ Hy Thái Hậu cầm đầu chống lại và đánh bại, Đàm Tự Đồng và 5 nguời khác bị xử tử hình, nhiều nhà lãnh đạo phải đi lưu vong qua Nhật Bản… Bà đã giam lỏng vua Quang Tự để toàn quyền chi phối Trung Quốc. Khi cả hai mất, vua Phổ Nghi lên nối ngôi và có lúc đã phải lưu vong qua Nhật Bản. Từ Hy Thái Hậu là một phụ nữ tàn ác, tham lam và thiển cận, vẫn chỉ lo ăn chơi trong lúc quốc nội rối loạn, ngoại xâm xâu xé, nên đất nước Trung Quốc càng ngày càng suy yếu, dần dần bị các đế quốc chi phối, phải nhượng tô giới, nhượng đất, ký các hiệp ước bất bình đẳng... Năm 1910, Bát Quốc Liên Quân trong đó có cả Nhật Bản đã đem quân đánh Bắc Kinh, Từ Hy và quần thần phải bỏ chạy, mãi sau mới sau hồi kinh.
- Chiến Tranh Nhật-Nga Năm 1904-1905: Nhật Chi Phối Mãn Châu
Nhật Bản và Nga Xô tranh giành quyền thống trị Mãn Châu, một xứ đất rộng người thưa ở đông-bắc Trung Quốc. Hạm đội Nhật chặn đường và đánh tan hạm đội Nga đang định rút về phương bắc tại biển Lữ Thuận. Nga phải đưa hạm đội Baltic hùng hậu từ Âu Châu đi vòng mũi Hảo Vọng của Phi Châu qua tiếp cứu, ghé cảng Cam Ranh của Việt Nam để tu bổ và nhận tiếp tế (khi đó Nga và Pháp là đồng minh). Nhưng khi hạm đội này lên tới phía bắc thì lại bị hạm đội Nhật đánh tan tại eo biển Đối Mã (giữa Nhật Bản và Hàn Quốc). Với hai chiến thắng liên tiếp, Nhật thừa thắng xông lên, đưa hàng mấy trăm ngàn quân vào chiếm Mãn Châu, lực lượng này gọi là Quan Đông Quân.
- Cách Mạng Tân Hợi Năm 1911 (辛亥革命)
Cuộc đấu tranh Duy Tân, Dân Chủ của người Trung Hoa, từ năm 1887 cuối cùng đã đi tới thắng lợi năm 1911, tức kéo dài 24 năm nhưng rồi gặp rất nhiều khó khăn.
Xin lược qua từ triều đình nhà Thanh… cho tới chính phủ Dân Quốc.
- Hàm Phong Đế (1831-1861, tại vị 1853-1861) bị bệnh mất.
- Đồng Trị Đế (1856-1874, tại vị 1861-1874) là con của Hàm Phong Đế và Tây Thái Hậu mới 5 tuổi lên ngôi. Tây Thái Hậu tức Từ Hy Thái Hậu và Đông Thái Hậu (chính thất của Hàm Phong Đế) hợp tác giúp vua.
- Khi Đồng Trị Đế chết trẻ, Từ Hy Thái Hậu đưa con của con gái là Quang Tự Đế (1871-1908, tại vị 1874-1908) lên ngôi, bắt đầu chế độ độc đoán. Khi Quang Tự lớn lên, chủ trương canh tân nên giữ khoảng cách đối với Từ Hy Thái Hậu. Từ Hy Thái Hậu và phe bảo thủ chống lại, nên trong cuộc Mậu Tuất Chính Biến năm 1887, vua Quang Tự bị giam lỏng, ông chỉ còn hiện diện trên danh nghĩa. Thất vọng trước nỗ lực cải cách từ trên xuống dưới này, phe cải cách đã đổi ra làm cuộc vận động từ dưới lên trên.
- 1899, Nghĩa Hòa Đoàn khởi nghĩa tấn công Bắc Kinh khiến Từ Hy Thái Hậu phải tạm thời bỏ kinh thành mà chạy, còn tấn công các cơ sở ngoại giao ngoại quốc, nên các nước Tây Phương hợp tác gởi quân tới đánh, đẩy lui và bắt nhà Thanh phải ký hiệp ước Tân Sửu, bồi thường chiến phí rất lớn cho họ.
- 1908, Từ Hy Thái Hậu và Quang Tự lần lượt qua đời. Tuyên Thống Đế (1906-1967, tại vị 1908-1912) tức Phổ Nghi lên ngôi. Tình hình rối loạn này là những yếu tố cuối cùng, giọt nước cuối cùng dẫn đến cuộc cách mạng.
- Tình hình đất nước Trung Quốc cuối đời nhà Thanh đã đi tới chỗ “nội ưu ngoại hoạn”, có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử lập quốc 5.000 năm diễn ra cảnh triều đình hủ bại cùng cực như vậy. Lịch sử Trung Quốc đã tới lúc diễn ra theo quy luật biện chứng mà chính họ đã từng nhận thức là “Cùng tắc biến, cực tắc phản”. Thật vậy, cùng với Chủ Nghĩa Tam Dân và những tư tưởng duy tân, dân chủ đã được loan truyền rộng rãi trước đó… kết hợp thành những yếu tố chín mùi cho một cuộc cách mạng bột phát, con gà “cách mạng” đục vỏ trứng chui ra.
- Ngày 10/10/1911, Cách Mạng Tân Hợi (cuộc cách mạng lần thứ 1) đã khởi đầu bằng cuộc nổi dậy của lực lượng vũ trang ở Vũ Sương rồi lan ra toàn quốc. Tháng 12/1911, Tôn Văn từ Hoa Kỳ về lãnh đạo cuộc cách mạng. Các tỉnh lần lượt tuyên bố độc lập, vua Phổ Nghi khi đó mới 6 tuổi âm thầm thoái vị (năm 1932, được Nhật Bản đưa lên làm vua xứ Mãn Châu, rồi bị câu lưu ở Nga, sống vất vưởng thời Cách Mạng Văn Hoá…), chấm dứt triều đại nhà Thanh (1644-1911) kéo dài trên 258 năm và cũng chấm dứt vĩnh viễn chế độ phong kiến.
- Năm 1912, nước Trung Hoa Dân Quốc chính thức được thành lập tại Nam Kinh. Tuy vậy, nhà cầm quyền trung ương chưa nắm vững hết tình hình toàn quốc, đó đây vẫn có những phe nhóm khác biệt hùng cứ một phương. Ông Tôn Văn lên làm Tổng Thống lâm thời mới được 3 tháng thì ông trao lại quyền Tổng Thống cho Viên Thế Khải là cựu Bộ Trưởng thời Từ Hy Thái Hậu. Viên Thế Khải dời chính phủ về Bắc Kinh.
- Ngày 12/7/1913, lại nổ ra cuộc cách mạng lần thứ 2, do Viên Thế Khải cầm đầu, ngày 6/10, ông chính thức làm Tổng Thống.
- Do áp lực của Viên Thế Khải, Tôn Văn lại phải lưu vong ở Nhật và lập ra Trung Hoa Cách Mạng Đảng ngày 8/7/1914.
- Tháng 8/1915, khi Viên Thế Khải đã nắm toàn quyền thì ông tự tuyên bố lên ngôi vua (Giống như Napoléon Bonaparte (1769-1821) bên Pháp quay lại quân chủ) nên bị dư luận phản đối và làm nẩy sinh cuộc cách mạng thứ 3 vào tháng 12/1915.
- Ngày 6/6/1916, Viên Thế Khải mất trong lúc chiến loạn. Hôm sau, Lê Nguyên Hồng (1864/66-1928) lên làm Tổng Thống, Đoàn Kỳ Thụy làm Thủ Tướng…
- Ngày 1/9/1917, Tôn Văn sau khi trở lại Trung Quốc lên làm Đại Nguyên Súy hải lục quân, lập chính quyền ở Quảng Đông, kết hợp lao-nông định làm cách mạng dân tộc. Trong khi đó, các tỉnh Hồ Nam, Tứ Xuyên, Đông Tam Tỉnh tuyên bố tự trị…
- Ngày 10/10/1919, Tôn Văn đổi Trung Hoa Cách Mạng Đảng thành Quốc Dân Đảng. Ngày 5/5/1921, ông nhậm chức Đại Tổng Thống chính phủ Quảng Đông, có ý định “Bắc Phạt”. Ngày 12/4/1924, ông công bố “Quốc Dân Chính Phủ Kiến Quốc Đại Cương”.
- Năm 1924, Lê Nguyên Hồng từ chức, Tào Côn lên thay được có 3 tháng. Ngày 23/10/1924, Phùng Ngọc Tường gây cuộc chính biến Bắc Kinh, tự xưng là “Quốc Dân Quân”. Nhóm Đoàn Kỳ Thụy… mời Tôn Văn lên Bắc Kinh họp thống nhất Nam-Bắc. Ngày 31/12/1924, ông lên họp, nhưng nửa chừng bệnh ung thư gan phát nên mất ngày 12/3/1925 tại Bắc Kinh.
- Ngày 1/7/1925, Uông Tinh Vệ lên làm Chủ Tịch chính phủ Quốc Dân tại Quảng Đông…
- Trong khi đó, thế lực Cộng Sản Đảng thành lập ngày 23/7/1921 bắt đầu bành trướng.
- Cách Mạng Nga Năm 1917
Trong khi đó ở Nga, Vladimir Ilyich Lenin (1870-1924) dựa vào Chủ Nghĩa Cộng Sản đang được tuyên truyền tại Đức, Pháp, Anh (dù các cuộc cách mạng Cộng Sản do Karl Marx trực tiếp khơi động ở đây không thành công) xây dựng chủ thuyết hành động đấu tranh sắt máu cụ thể, đã lật độ chế độ phong kiến và sát hại gia đình Nga Hoàng lập nên Liên Bang Xô Viết. Một số trí thức theo Chủ Nghĩa Cộng Sản tuyên truyền thúc đẩy giới lao động vùng lên chiếm chính quyền. Đảng Cộng Sản Nga đã xây dựng một chế độ độc tài toàn trị sắt máu, càng sắt máu hơn dưới thời Joseph Stalin (1879-1953) qua những cuộc thanh trừng khủng khiếp, những nạn đói nhân tạo do sai lầm về chính sách… và còn có mưu đồ gieo rắc chế độ này khắp nơi qua khẩu hiệu “Giải phóng các nước bị trị - Giải phóng lao động - Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại.”. Chế độ Cộng Sản Liên Xô đã tuy phần nào đã đưa đất nước đi lên, nhưng giá hy sinh quá lớn, như lập ra nông trường tập thể, trại tập trung… sát hại trước sau trên 14 triệu người (theo nhà sử học Nga, Tướng Dimitri Volkogonov, cựu Giám đốc Viện Sử học quân sự Liên Xô cũ) và bị sụp đổ vào năm 1991.
Nhìn lại, tất cả sự hy sinh vô bờ bến ấy vì những tham vọng điên cuồng của một thiểu số đều đã trở thành vô ích!!! Hạnh phúc, phú cường đâu không thấy, chỉ toàn thấy tang thương, khổ đau!!! Và khi xây dựng lại một nước Nga theo trào lưu Dân Chủ, người ta còn phải mất rất nhiều năm để giải quyết những hội chứng Cộng Sản tệ hại còn sót lại.
- Phong Trào Ngũ Tứ 4/5/1919
Thế Chiến Thứ 1 chấm dứt, Đức bị thua, tháng 1/1919, Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc) họp tại Paris ngày 18/1. Người Hoa tưởng là phen này tô giới của Đức được trả lại cho họ, và có thể xoá bỏ hiệp ước bất bình đẳng 21 điều với Nhật Bản. Nhưng rồi các cường quốc bất chấp quyền lợi của Trung Quốc nên ngày 4/5/1919, khoảng 3.000 sinh viên đại học Bắc Kinh đã xuống đường, cuộc biểu tình bị đàn áp, có 32 người bị bắt, nhưng rồi nhà cầm quyền phải thả ra. Phong trào bãi khóa lan rộng tới Thiên Tân và khắp nước. Nhà cầm quyền lại đàn áp nhưng bất lực. Phong trào đòi bãi chức 3 nhân vật đã ký hiệp ước với Nhật, cuối cùng trước khí thế của các cuộc biểu tình, nhà cầm quyền phải nhượng bộ, bãi chức ba người kia. Phong trào cũng phản đối dự thảo tại Hội Quốc Liên nên đại diện Trung Quốc không dám ký vì sợ mang tiếng là “kẻ bán nước”… Đó là thắng lợi lớn của Phong Trào Ngũ Tứ, một trong những phong trào tự phát đầu tiên của quần chúng.
- Hợp Tác Quốc-Cộng Chống Nhật Năm 1924
Đây là lần hợp tác gượng gạo đầu tiên giữa hai tổ chức trái ngược hoàn toàn về đường lối. Đại hội đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ 3 tháng 6/1923, chấp nhận hợp tác Quốc-Cộng theo đề án của Đệ Tam Quốc Tế do Marin chỉ đạo và đại hội Trung Hoa Quốc Dân Đảng lần thứ 1 tháng 1/1924 đưa ra 3 điểm: Liên Nga (Liên Xô), Liên Cộng và hỗ trợ công nông. Sự hợp tác Quốc-Cộng nhằm thống nhất Trung Hoa Dân Quốc và nhận viện trợ của Liên Xô để đấu tranh giành độc lập. Sự hợp tác dưới hình thức đảng viên Cộng Sản Đảng gia nhập Quốc Dân Đảng. Ngay cả Mao Trạch Đông và 9 Ủy Viên Trung Ương Cộng Sản Đảng cũng trở thành Uỷ Viên Trung Ương hay Ủy Viên Dự Khuyết của Quốc Dân Đảng và Borbodine của Đệ Tam Quốc Tế Nga làm Cố Vấn của Quốc Dân Đảng… Nhưng sau khi Tôn Văn mất, nội bộ phân hóa, Cộng Sản Đảng lo bành trướng thế lực và xảy ra nhiều cuộc ám sát, thanh toán lẫn nhau… Tháng 11/1925, phái Tây Sơn chủ trương chống Nga, chống Cộng nên rút ra, tháng 3/1926, Tưởng Giới Thạch biểu lộ rõ tư thế chống Cộng. Ngày 12/4/1927, Tưởng Giới Thạch đảo chánh ở Thượng Hải, lên làm Tổng Thống, sát hại một số đảng viên Cộng Sản… và nhất quyết một sống một còn với chính phủ tả phái ở Vũ Hán và Cộng Sản Đảng, từ đó cuộc hợp tác Quốc-Cộng bị tan vỡ. Ngày 18/7/1929, Quốc Dân Đảng đoạn giao với Liên Xô. Bị tấn công liên tục, Mao Trach Đông phải làm cuộc “Vạn Lý Trường Chinh” dài 12.000 km trong thời gian 2 năm 1934-1936, đầy gian khổ và chết chóc, từ phương nam lên phía tây-bắc, lập căn cứ địa tại Diên An với viện trợ của Liên Xô, quân của Tưởng Giới Thạch với viện trợ của Hoa Kỳ bao vây tiêu diệt 6 lần (16/12/1930-2/10/1936 (Diên An)…) nhưng cuối cùng vẫn không thành công.
- Mãn Châu Sự Biến Năm 1931
Ngày 18/9/1931, đường xe hỏa của quân đội Nhật tại Mãn Châu bị đặt chất nổ. Nhật cho là Đông Bắc Quân của Trương Học Lương gây ra vụ này, nhưng thực ra đây là do quân Nhật tự biên tự diễn để kiếm cớ đánh vào Đông Bắc Trung Quốc. Rồi nhân một vụ nổ từ căn cứ của quân Trung Quốc ở hồ Liễu Diên, quân Nhật tấn công hạ sát binh sĩ Trung Quốc, hôm sau chiếm Phụng Thiên, Trường Xuân, Doanh Châu…
- Chiến Tranh Trung-Nhật Năm 1937-1945 (lần thứ 2): Vụ Lư Cầu Kiều - Thảm Sát Nam Kinh
Trung Quốc gọi là Chiến Tranh Kháng Nhật. Cuộc chiến khởi sự ngày 7/7/1937, nhưng thực tế không có tuyên chiến, giống như khi hạm đội Nhật tấn công Trân Châu Cảng ngày 7/12/1939 (Nhật Bản là ngày 8/12). Quân hai bên đụng độ dữ dội ở Lư Cầu Kiều, Bắc Kinh. Quân Nhật thắng, thừa thế kéo từ vùng Hoa Bắc xuống tận Hoa Nam, chiếm Nam Kinh ngày 13/12/1937, gây ra cuộc thảm sát mà số người bị ngược sát khoảng 100.000-300.000 người. Trong khi đó, lực lượng Quốc-Cộng kết hợp lần thứ hai trong tư thế dè chừng nhau để chống Nhật. Năm 1938, Nhật Bản tổng động viên. Tháng 8/1945, Nhật bị hai quả bom nguyên tử, nên tuyên bố đầu hàng, ngày 2/9, ký hiệp ước đầu hàng Hoa Kỳ và Đồng Minh vô điều kiện. Nhờ đó cuộc chiến Trung Nhật cũng chấm dứt vào giữa tháng 9/1945.
- Cuộc nội chiến tương tàn 1945-1949
Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng tiếp tục vừa đàm phán, vừa lao vào cuộc chiến Quốc-Cộng huynh đệ tương tàn. Quốc Dân Đảng đã đưa ra dự thảo hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc năm 1936, và chính thức công bố năm 1947, nhưng do tham nhũng, bất tài nên mất dần sự ủng hộ của dân chúng, dần dần yếu thế trong khi Cộng Sản Đảng được Liên Xô yểm trợ ngày càng mạnh lên và cuối cùng chiến thắng. Mao Trạch Đông và Cộng Sản Đảng chi phối toàn cõi Hoa Lục, tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ngày 1/10/1949, Tưởng Giới Thạch và một số tàn quân phải nhục nhã bỏ chạy ra Đài Loan ngày 10/12/1949. Từ năm 1947, trước khi nắm chính quyền, Mao Trạch Đông đã cho thi hành chính sách Đấu Tranh Giai Cấp, Cải Cách Ruộng Đất với những cuộc đấu tố man rợ…, khiến người dân Trung Quốc lại một phen trở thành nạn nhân của “cách mạng”!
2- Chủ Nghĩa Tam Dân Của Nhà Cách Mạng Dân Chủ Tôn Văn
Tôn Văn (孫文, Sūn Wén, 12/11/1866-12/3/1925), tự Đức Minh (Deming), hiệu Dật Tiên (Yat-sen), còn có hiệu là Trung Sơn (Zhōngshān, Trung Sơn là tên căn nhà ông sống ở Nhật), vợ là Tống Khánh Linh (1893-1981, du học Hoa Kỳ năm 1908, kết hôn tại Nhật Bản tháng 10/1915, sau 1949, thời Cộng Sản, làm Phó Chủ Tịch Hội Nghị Chính Trị Hiệp Thương, Chủ Tịch Danh Dự Nước), là nhà cách mạng Trung Quốc, người cầm ngọn cờ đầu Dân Chủ, tới nay vẫn đươc coi là “Quốc Phụ” Trung Quốc hiện đại, có đền thờ rất lớn gọi là Trung Sơn Lăng tại Nam Kinh và khắp nơi. Ông đã cùng với các đồng chí như Đàm Tự Đồng (bị giết sau khi thất bại trong cuộc Mậu Tuất Chính Biến chống lại triều đình nhà Thanh năm 1887), Khang Hữu Vi, và Lương Khải Siêu, Hoàng Hưng, Chương Bỉnh Lân là ba người phải lưu vong ở Nhật mà cụ Phan Bội Châu đã gặp…
1905, tức Quang Tự năm thứ 13, Hoa Trung Hội, Quang Phục Hội và Hoa Hưng Hội kết hợp thành Trung Quốc Đồng Minh Hội (tiền thân của Trung Hoa Quốc Dân Đảng) ở Nhật Bản do Tôn Văn cầm đầu, đã đưa ra “Tứ Cương Lĩnh” (四綱領):
1- Khu trừ Thát lỗ (loại trừ giặc Mông Cổ).
2- Hồi phục Trung Hoa.
3- Kiến lập dân quốc.
4- Bình quân địa quyền (chia đều đất đai).
Ngay sau đó năm 1906, đổi thành Chủ Nghĩa Tam Dân:
1- Chủ Nghĩa Dân Tộc: độc lập.
2- Chủ Nghĩa Dân Quyền: tự do.
3- Chủ Nghĩa Dân Sinh: hạnh phúc.
Ông chủ trương thành lập chính quyền qua 3 giai đoạn: quân chính, huấn chính, hiến chính và lập ta thể chế Ngũ Quyền Hiến Pháp (五権憲法):
1- Lập Pháp.
2- Hành Pháp.
3- Tư Pháp.
4- Khảo Thí. (để chọn nhân tài cho đất nước, tránh mua bằng cấp và quan chức)
5- Giám Sát. (tương tự như tự do ngôn luận là đệ tứ quyền ở Hoa Kỳ?)
Ông Tôn Văn muốn lập Tổng Thống Chế và liên bang như Hoa Kỳ, nhưng ông Tống Giáo Nhân (1882-1913, bị ám sát) là người đặc trách tổ chức Quốc Dân Đảng thì chủ trương Đại Nghị Chế (với hai viện và Hạ Viện đa số ở Hạ Viện bầu Thủ Tướng như Anh, Nhật), hai bên thường xuyên tranh chấp với nhau.
Tôn Văn đã đề ra quan niệm “Tri nan hành dị” (biết khó làm dễ), “Không biết cũng có thể làm, làm rồi sẽ biết”… Ông cũng là người đã truyền bá thuyết tiến hóa của Darwine ở Trung Quốc, cho rằng “Mọi vật trong thế giới đều do tiến hóa mà thành.”.
- - - -
Năm 1905, chính ông Khuyển Dưỡng Nghị (1855-1932) là chính trị gia hàng đầu của Nhật, sau làm Thủ Tướng và bị một thanh niên Triều Tiên ám sát) đã giới thiệu cụ Phan lên Đông Kinh gặp nhà cách mạng Tôn Văn vừa từ Hoa Kỳ về tới, là người mà cụ Phan đã thán phục qua những bài viết của ông, Chủ Nghĩa Tam Dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc"... cha đẻ cách mạng Tân Hợi 1911 của Trung Quốc. Ngày 1/1/1912, Tôn Văn được bầu làm Tổng Thống lâm thời năm 1911, lúc ông 45 tuổi. Ông đã từng du học và làm việc ở Hoa Kỳ, bôn ba khắp nơi vận động cách mạng, và cũng từng đến Việt Nam năm 1904, cư ngụ tại số 22 phố Hàng Buồm, Hà Nội…, để vận động sự ủng hộ và đóng góp tài chính của Hoa Kiều. Chính ông Hồ Chí Minh đã lấy mục tiêu của ba chủ nghĩa trên làm tiêu đề văn thư “Độc L ập - Tự Do - Hạnh Phúc”, cũng như đã lấy những điểm căn bản trong hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp đưa vào bài diễn văn độc lập đọc ngày 2/9/1945 tại Ba Đình, Hà Nội.
Cụ Phan Bội Châu đã đến Trí Hòa Đường (智和堂) ở Yokohama gặp ông Tôn Văn hai lần, bút đàm với nhau, tuy chưa hiểu nhau nhiều nhưng cụ Phan thì muốn Trung Quốc giúp Việt Nam giải phóng trước rồi lấy đó làm bàn đạp giải phóng Lưỡng Quảng, còn Tôn Văn thì muốn đảng nhân Việt Nam gia nhập đảng cách mạng Trung Quốc, hễ đến lúc Trung Quốc thành công thì nước thứ nhất được viện trợ là Việt Nam. Mặt khác, cụ Phan vẫn còn tư tưởng bảo hoàng, nhưng Tôn Văn thì một mực bác bỏ đảng quân chủ lập hiến. Tuy vậy, qua hai cuộc gặp gỡ trên và trước cũng như sau đó cụ Phan gặp cả ông Chương Bỉnh Lân, và ông Hoàng Hưng, tổng cộng là bốn người đầu não của Cách Mạng Tân Hợi nên sau nhờ đó phía Việt Nam có thể nương nhờ họ nhiều.
Cụ Lương Khải Siêu khuyên cụ Phan nên dùng lời lẽ thống thiết tố giác tình cảnh Việt Nam với thế giới và kêu gọi quốc dân Việt thức tỉnh, cũng như nên cổ động thanh niên xuất dương cầu học. Cụ Phan đã viết cuốn sách đầu tiên ở Nhật "Việt Nam Vong Quốc Sử" với sự góp ý và lời nói đầu của cụ Lương. Việt Nam Vong Quốc Sử nói qua về lịch sử Việt Nam, 13 chí sĩ ái quốc chống Pháp thời Văn Thân, Cần Vương, vạch trần và lên án chế độ thực dân, tố giác triều đình bất lực, tham ô... cũng được đăng trên Tân Dân Tùng Báo.
Đối với thời bấy giờ, đây là một bước đột phá rất quan trọng trong phương thức đấu tranh, khi đưa ra một chủ thuyết khá hoàn bị, nói rõ mục tiêu đấu tranh cách mạng dân chủ. Chủ Nghĩa Tam Dân đã thu hút được sự hưởng ứng của khá đông dư luận dân Trung Quốc, nhờ đó mà cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911 thành công. Từ những quan hệ trước đó giữa những nhà cách mạng lãng đạo hai nước, cũng như trong những cuộc xung đột với quân nhà Thanh ở Quảng Đông và Nam Kinh, có vài chục nhà cách mạng Việt Nam tham dự và có người đã hy sinh, nên quan hệ giữa các nhà cách mạng Việt và Hoa khá gắn bó. Cụ Phan đã định đưa 480 khẩu súng trường mua của Nhật cho cách mạng Trung Hoa, nhưng chưa kịp làm thì bị nhà cầm quyền Anh tịch thu. Năm 1912, cụ Phan Bội Châu được mời làm khách dự thính phiên họp đầu tiên của quốc hội Dân Quốc tại Nam Kinh (gần Thượng Hải).
Sau cách mạng Tân Hợi, ông Tôn Văn tiếp tục đi diễn thuyết khắp nơi về Chủ Nghĩa Tam Dân, trong thời gian tháng 1-8/1924, ông đã có 16 buổi nói chuyện. Năm 1924, ông đã nói chuyện tại Kobe, chủ trương Chủ Nghĩa Đại Á Châu, Đông Dương Hòa Bình Vương Đạo, Thân Thiện Hoa-Nhật... Rất tiếc Tôn Văn mất sớm, ông để lại di chúc bày tỏ sự chưa mãn nguyện: “Cuộc cách mạng chưa thành”. Trung Hoa Quốc Dân Đảng sau khi lên nắm quyền đã đi đến kiêu binh, lạm quyền và tham nhũng nên bị yếu dần đi. Liên minh Quốc-Cộng 1924 chống Nhật lần thứ 1…, và lần thứ 2 trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật 1937-1945, mà do Nhật Bản thua Thế Chiến Thứ 2 đã đem lại thắng lợi cho Trung Quốc và cuộc chiến tương tàn Quốc-Cộng đã đem lại thắng lợi năm 1949 cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập năm 1921, do Mao Trạch Đông lãnh đạo.
Chế độ Cộng Sản Trung Quốc đã sát hại trước sau khoảng 60 triệu người (theo các sử liệu và ông Hoàng Minh Chính), đặc biệt là trong những thập niên đầu tiên với “Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Văn Nghệ Sĩ, 3 Ngọn Cờ Hồng, Trại Tập Trung, Công Xã, Bước Tiến Đại Nhảy Vọt, Cách Mạng Văn Hóa, Vệ Binh Đỏ...”. Kinh tế tụt hậu, cuộc sống rơi vào cùng cực, truyền thống bị phá bỏ, đạo đức bị băng hoại… Chính Mao Trạch Đông là người vô cùng độc đoán và có cuộc sống sa đọa. Tài liệu “Cửu Bình” (九評, 9 bài bình luận về đảng Cộng Sản) nêu lên những điểm tàn bạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc là một bằng chứng rõ rệt về những chuyện này. Có thề xem chi tiết trong trang nhà:
http://www.cuubinh.net
Sau khi Mao chết năm 1976, đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình… dần dần đi vào thực tiễn, đã đưa nước này ngày một đi lên. Đây là những yếu tố quan trọng đã ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam. Thật vậy, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã giúp dảng Cộng Sản Việt Nam rất dồi dào về nhân lực và vũ khí nên đảng Cộng Sản Việt Nam đã chiến thắng trên các mặt trận chống Pháp và quốc gia, đặt biệt là tại Điện Biên Phủ năm 1954… Và miền Bắc Việt Nam năm 1945, rồi Nam Việt Nam năm 1975 lần lượt bị đặt dưới sự cai trị của Cộng Sản. Đảng Cộng Sản Việt Nam có phần trách nhiệm lớn trong 4 cuộc chiến: chiến tranh Đông Dương lần thứ 1 năm 1930-1945, lần thứ 2 năm từ 1954-1975, đánh qua Cam Bốt năm 1977-1987, đánh nhau với Trung Quốc năm 1978, rồi Cải Cách Ruộng Đất năm 1954-1955, đánh tư sản 1975, gây ra nạn vượt biển, vượt biên năm 1975-1995… đã làm thiệt mạng khoảng 4 triệu người. Cộngn Sản Miên cũng vậy, Polpot đã làm hàng trăm ngàn người chết trong chiến tranh và ngược sát khoảng 1,7 triệu người...
III- Đấu Tranh Dân Chủ Tại Việt Nam
1- Giai Đoạn Đấu Tranh Tự Phát Và Tinh Thần Quân Chủ
Ngày 15/4/1847, thời vua Thiệu Trị, tàu chiến Pháp đã bắn chìm 9 tàu chiến của Việt Nam tại cửa biển Đà Nẵng rồi bỏ đi. Năm 1856, thời vua Tự Đức, tàu Pháp trở lại bắn phá, uy hiếp Đà Nẵng, rồi năm 1859, tàu Pháp và Ý vào Nam đánh chiếm đất Gia Định… Sau cuộc chống cự lâu dài của dân tộc Việt Nam, tới năm 1884, triều đình Huế ký hiệp ước Patenote, coi như Pháp hoàn toàn đô hộ Việt Nam, mặc dù họ chia Việt Nam làm ba miền theo ba thể chế khác nhau. Nam Kỳ là thuộc địa Cochichine, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ Tonkin, Trung Kỳ là An Nam thuộc triều đình Huế nhưng dưới sự bảo hộ của Pháp. Việc ngoại giao, quân sự, kinh tế hoàn toàn trong tay người Pháp.
Năm 1874, Phong Trào Văn Thân với Trần Tấn và Đặng Như Mai đưa ra hịch “Bình Tây Sát Tả” cùng khoảng 3.000 người nổi lên tại Nghệ An, đã từng đánh lấy thành Hà Tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn Châu…
Năm 1885, Tôn Thất Thuyết cùng một số sĩ phu và nghĩa sĩ phò vua Hàm Nghi (1871-1943) bỏ Huế đi lánh nạn ở Quảng Trị, ông Thuyết khi ở Quảng Bình đã làm hịch “Cần Vương”, Phong Trào Cần Vương được dân chúng từ Bình Thuận trở ra Nghệ An, Thanh Hóa đều ủng hộ…
Nhưng chẳng bao lâu kể từ khi nổi lên, cả hai phong trào lần lượt bị nhà cầm quyền Pháp và tay sai bản xứ triệt hạ, nhiều người bị sát hại. Hình thức đấu tranh của hai phong trào, là phò vua, cứu nước, hội kín, uống máu ăn thề, luyện võ, rèn kiếm... Phong Trào Văn Thân có tính tự phát, thiếu chuẩn bị, mà lại vừa lo chống giáo dân theo Pháp, vừa lo chống Pháp… Phong Trào Cần Vương có vua quan, có tư thế hơn, nhưng rồi vua Hàm Nghi bị phản bội, b ịđem bán đứng và căn bản là thiếu lực nên nhanh chóng bị thua. Năm 1916, vua Duy Tân lên ngôi, cũng can đảm đứng lên mưu giành độc lập nhưng không thành…
Cạnh đó còn có rất nhiều cuộc nổi dậy với các chiến khu như của cụ Nguyễn Thiện Thuật (1841-1926) ở Bãi Sậy, Tống Duy Tân (1838-1892) và Cao Điểu ở Hùng Lĩnh, Thanh Hóa trong 6 năm 1886-1892, Phan Đình Phùng (1847-1895) và Cao Thắng (1865-1893) ở Vũ Quang kéo dài trong 11 năm (1885-1895) đặc biệt bắt đầu tự đúc súng và Hoàng Hoa Thám (1858-1913) ở Yên Thế kéo dài 8 năm (1905-1913)… cũng lần lượt bị tan rã.
2- Giai Đoạn Vận Động Đấu Tranh Dân Quyền Toàn Quốc Và Hải Ngoại
Hai Phong Trào Văn Thân và Cần Vương thất bại làm tinh thần đấu tranh của dân Việt nhất thời bị trùng xuống cho tới năm 1904 thì lại bắt đầu vùng lên mạnh mẽ với sự ra đời của hai Phong Trào Đông Du (Duy Tân Hội - Việt Nam Quang Phục Hội...) và Duy Tân.
Rút kinh nghiệm thất bại trong quá khứ và nhân tiếp thu được những tư tưởng dân quyền như tự do, dân chủ từ Pháp qua các sách Tân Thư của các nhà cách mạng Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…, hai phong trào mới này có hướng đi khác hẳn. Đặc trưng của hai phong trào này là đi vận động toàn quốc rồi sau đó lan ra hải ngoại.
Phan Bội Châu Phan Châu Trinh
Cụ Phan Bội Châu và Tiểu La Nguyễn Thành, Tăng Bạt Hổ… chủ trương bạo động và bí mật, ban đầu còn tinh thần “tôn quân” đã đưa cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lên làm Hội Chủ. Mặt khác, cũng chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, thụ nhân tài (đào tạo nhân tài).”.
Còn cụ Phan Châu Trinh với cụ Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… thì chủ trương bất bạo động và công khai, đặc biệt là “tôn dân đổ vua” tức chủ trương dân chủ. Mặt khác, cũng chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh (đem lại phúc lợi cho dân).”.
Cả hai phong trào đã phát triển hoạt động khá tốt đẹp trong 4 năm đầu 1904-1908. Tới năm 1908, Phong Trào Đông Du do Pháp áp lực nên bị Nhật trục xuất, phong trào kể như tan, và sau đó cụ Phan Bội Châu tiếp tục hoạt động tại địa bàn Thái, nhất là Trung Quốc và lập Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1924 với “Chủ Nghĩa Tam Dân”. Tới năm 1925, cụ bị bắt cóc đưa về Việt Nam xử án và an trí tại Huế. Mât khác, Phong Trào Duy Tân phát triển mạnh, mở một loạt trường, cơ sở thương mại, nông trại, kêu gọi cắt tóc và ăn mặc theo Âu Phục may bằng vải Ta… nhưng rồi do vụ dân chúng khắp Trung Kỳ bất ngờ nổi lên kháng thuế gọi là “Trung Kỳ Dân Biến 1908” nên bị Pháp ra tay đàn áp, hầu hết các lãnh tụ phong trào bị bắt. Cụ Phan Châu Trinh tiếp tục hoạt động ở Pháp từ năm 1911 đến 1925 thì về nước và năm 1926 bị bệnh mà mất.
Hai phong trào này đã có ảnh hưởng rất lớn đối với tâm thức của người Việt, đã đốt lên ngọn đuốc hy vọng về việc giải phóng đất nước và dân chủ hoá. Tuy vậy, nói chung cả hai phong trào vẫn chỉ hoạt động với những nhận thức chung chung, đơn giản, chưa tổ chức dưới hình thức đảng và có hệ thống chủ thuyết. Giờ chót năm 1924, cụ Phan Bội Châu mới chuyển qua hình thức đảng và có chủ thuyết nhưng hầu như dập khuôn của cuộc đấu tranh Dân Quyền của Trung Quốc, đứng đầu là Tôn Văn.
Phải chăng nếu chế độ Dân Chủ của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch tồn tại ở Trung Quốc thì cũng có nhiều xác suất Việt Nam sớm trở thành một nước dân chủ từ khoảng cuối thập niên 40, đầu 50.
Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Trung Quốc và việc đưa ra Chủ Nghĩa Tam Dân hay Cuộc Cách Mạng Cộng Sản và việc đưa Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Nga vào Việt Nam đã ảnh hưởng rất nhiều tới các hoạt động đấu tranh chính trị tại Việt Nam về nội dung hay gợi ý tự xây dựng chủ thuyết.
Tháng 7/1924, cụ Phan Bội Châu đi Quảng Đông. Sau đó, cụ Phan và Nguyễn Hải Thần tới Quan Quân Học Hiệu Hoàng Phố mới vừa mở ở Quảng Châu, yết kiến Hiệu Trưởng là Tưởng Giới Thạch và Giám Đốc là Lý Tề Thâm, cả hai đều tán thành việc đưa học sinh Việt Nam vào học. Vì vậy cụ và các đồng chí đã cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội, khi đó đã rã rời, thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặt trụ sở tại Tổng Chi Bộ tại Quảng Châụ Đường lối của đảng dựa theo đường lối Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Văn, nhằm lật đổ Pháp và thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Cụ Phan đã viết Việt Nam Quốc Dân Đảng Chương Trình và Việt Nam Quốc Dân Đảng Đảng Cương. Đảng có các đại bộ: Bình Nghị, Kinh Tế, Giám Đốc (kiểm soát) và Chấp Hành, trong Chấp Hành Bộ có 6 ty là Văn Độc (văn thư), Tuyên Truyền, Quân Sự, Tài Chính, Thư Vụ, Huấn Luyện...
Thật tiếc là công cuộc đấu tranh sau bao thăng trầm, mất mát, vừa bước qua một giai đoạn mới, có nhiều triển vọng hơn cả thì cụ Phan bị bắt. Việt Nam Quốc Dân Đảng do cụ mới thành lập ở Quảng Đông năm 1924 do đó cũng yếu hẳn đi, một số nhân sự và cơ sở sau này lọt vào tay Cộng Sản.
Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học (1901-1930), người mà năm 1926 đã từng đề nghị cải tổ nền hành chánh, ban hành tự do ngôn luận... đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh của cụ Phan Bội Châu, nên năm 1927 đã thành lập Đảng Quốc Dân Việt Nam, gọi tắt là Quốc Dân Đảng tại Yên Bái và coi cụ Phan Bội Châu là Đảng Trưởng Danh Dự mặc dù cụ không chính thức nhận. Đảng với đảng cương dựa theo Trung Hoa Quốc Dân Đảng, chủ trương dùng bạo lực để giành lại độc lập cho dân tộc, năm 1929 đã ám sát chủ mộ phu đồn điền người Pháp là Bazin. Ngày 20/2/1930, ông Nguyễn Thái Học và một số đồng chí bị bắt và ngày 17/6/1930, ông cùng 12 đồng chí khác bị Pháp xử tử hình tại Yên Bái.
Quốc Dân Đảng với chủ thuyết gọi là Việt Nam Tam Dân Chủ Nghĩa gồm:
- Dân Tộc Độc Lập: Nguồn gốc dân tộc - Văn hóa truyền thống - Tinh thần độc lập - Lòng yêu nước - Nghĩa đồng bào - Đạo đức dân tộc.
- Dân Quyền Tự Do: Dân quyền - Tự do- Bình đẳng – Dân chủ.
- Dân Sinh Hạnh Phúc: Dân sinh hạnh phúc - Văn hóa độc lập - Giáo dục tiến bộ - Cộng đồng dân chủ - Luật pháp nhân bản - Hữu sản dân quyền.
Ngoài các đảng kể trên còn có đảng Duy Dân với Lý Đông A chủ trương Chủ Nghĩa Duy Dân, Việt Nam Cách Mạng Đảng với Nguyễn Hải Thần, đảng Đại Việt với Trương Tử Anh chủ trương Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, từ đó sinh ra Đại Việt Quốc Dân Đảng với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam (Bắc), Đại Việt Cách Mạng Đảng với Hà Thúc Ký (Trung), Tân Đại Việt với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy (Nam) là người đã bổ sung Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn (đặt nặng Dân Bản)… hay các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài cũng có những tư tưởng giữ nước và dựng nước. Nói chung, tất cả đều coi dân tộc là mục tiêu, lý tuởng để hoạt động.
3- Sự xuất hiện của chủ nghĩa Cộng Sản
Tháng 9, cụ Phan đi Hàng Châu, định mời cụ Nguyễn Thượng Hiền về cùng tham gia công việc ở Quảng Châu, ủy cho Lâm Đức Thu.... lo việc xếp đặt và mời người về họp. Tài liệu trên thì ủy cho Hồ Tùng Mậu đem về nước, nhưng cụ cũng không biết có đem được về và có thay đổi được gì không?...
Tháng 11, sau khi in xong chương trình đảng cương được 3 tháng, có Lý Thụy (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã từ Mạc Tư Khoa (Nga) sang Hạ Sâm Uy (Vladivostok) ở phía đông rồi lấy tàu đi Quảng Châu, theo làm thông dịch viên cho phái đoàn Nga do Mikhail Borodin cầm đầu qua làm cố vấn chính trị cho chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Nhưng ông cũng đồng thời là Ủy Viên Đông Phương Cục của Đệ Tam Quốc Tế với trách nhiệm thành lập và kiểm soát các đảng Cộng Sản tại Đông Á, nên đã thiết lập đảng Cộng Sản Đông Dương, Thái và Miến Điện.
Ông Lý Thụy (1890-1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung rời Việt Nam năm 1911 lgu lạc khắp nơi, năm 1916 hay 1917, với tên Nguyễn Tất Thành, ông từ London là thủ đô nước Anh, đến ở chung với Phan Châu Trinh tại Paris, gia nhập đảng Xã Hội Pháp, trở thành một người trong nhóm "Ngũ Long" với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh (sau theo Cộng Sản Đệ Tứ)... và tên Nguyễn Ái Quốc là tên chung. Nguyễn Tất Thành theo chủ nghĩa Cộng Sản khi Lênin (1870-1924) thành lập Đệ Tam Quốc Tế năm 1919. Ông là một trong những sáng lập viên đảng Cộng Sản Pháp. Năm 1923, ông đi Nga với tính cách là đại biểu nông dân các nước thuộc địa, khi tới thủ đô Moscow, thì Lênin mất ngày 24/1/1924. Ông được đảng Cộng Sản Nga (thuộc Cộng Sản Đệ Tam) đào luyện tại trường Đông Phương ở Moscow... rồi cuối năm 1924, được Cộng Sản Quốc Tế gởi qua Trung Quốc.
Lý Thụy chủ trương lập Toàn Thế Giới Nhược Tiểu Dân Tộc Liên Hiệp Hội để lãnh đạo các nước chống lại với Thực Dân, Tư Bản và kêu gọi nên bỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng mà gia nhập tổ chức ấy, lập Á Đông Bộ, Việt Nam Chi Bộ.
Sau, ông Lý Thụy đổi Toàn Thế Giới Nhược Tiểu Dân Tộc Liên Hiệp Hội, Á Đông Bộ, Việt Nam Chi Bộ thành "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội" tức Việt Nam Đồng Chí Hội ở Quảng Đông và làm Tổng Bí Thư, còn Lâm Đức Thụ giữ vai đại diện. Trước sự xuất hiện này, cụ Nguyễn Thượng Hiền bắt đầu cảnh giác và chống lạị Năm 1927, bị nhà cầm quyền Trung Hoa bố ráp nên năm 1928, ông qua Thái Lan hoạt đô.ng. Hồ Tùng Mậu bị bắt rồi được thả năm 1929, đã thay Lý Thụy làm Tổng Bí Thư, triệu tập đại hội ngày 1/5/1929 tại Hương Cảng nhưng không kết quả vì các phe nhóm vẫn bất đồng.
Ngày 23/12/1929, ông Lý Thụy dùng tên Nguyễn Ái Quốc, với tư cách đại diện Cộng Sản Quốc Tế từ Thái Lan qua Hương Cảng triệu tập 3 đảng Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Bắc Kỳ, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn tại Trung Kỳ và An Nam Cộng Sản Đảng tại Nam Kỳ theo chỉ thị mật đề ngày 27/10/1929 của Ngạ Phiên họp từ 2-7/2/1930, Lý Thụy đã hòa giải và thống nhất 3 đảng (tuy đại diện Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn không dự) thành Việt Nam Cộng Sản Đảng nhưng ngay sau đó theo khuyến cáo của Đông Phương Bộ của Cộng Sản Quốc Tế đã đổi thành đảng Cộng Sản Đông Dương, đây là tiền thân của đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam bây giờ. Nhà cầm quyền Anh biết Nguyễn Ái Quốc là cán bộ Cộng Sản nên bắt giam ngày 6/6/1931, sau ông được Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và các đồng chí, kể cả cụ Cường Để ở Nhật... can thiệp nên được thả ra năm 1933 thì lại sang Nga học trường đại học Lênin.
Năm 1938, ông quay trở lại Quảng Tây và năm 1940, ông về nước, lập căn cứ ở hang Pác Bó (Cao Bằng). Tháng 8/1942, lấy tên Hồ Chí Minh, rồi lại trở sang Trung Quốc, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 1 năm và được trả tự do vào tháng 9/1943. Cuối năm 1944, ông thành lập Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân.
Có tin "Hồ Chí Minh" là tên hiệu của ông Hồ Học Lãm, người thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, năm 1941, khi ông Lãm mất năm 1942 thì ông Nguyễn Tất Thành lấy dùng tên hiệu và tổ chức này để hoạt động?
. Ngày 16/8, ông chủ tọa Hội nghị Quốc Dân, ngày 25/8, lập chính phủ lâm thời, và ngày 2/9 lập chính phủ do ông làm Chủ Tịch kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao...
Nhật Bản vờ nêu cao danh nghĩa "Đại Đông Á" (大東亜, Daitoa), giúp các dân tộc nhược tiểu vùng lên giành độc lập và "trao quyền" cai trị đất nước lại cho người Việt. Nhật Bản đã kín đáo nói với Hoàng Đế Bảo Đại đưa cụ Trần Trọng Kim (1883-1953) lên làm Thủ Tướng. Cụ Trần Trọng Kim cũng lưỡng lự mãi mới nhận lời, thành lập chính phủ ngày 17/4/1945... mà không có Bộ Quốc Phòng, không có quân đội nên mặt an ninh và đường lối vẫn phải dựa vào quân Nhật.
. Ngày 11/3, chính phủ Trần Trọng Kim đã tuyên bố độc lập, lấy quốc hiệu là Việt Nam và quốc kỳ là hình Quẻ Ly, với 2 gạch liền trên dưới và gạch đứt ở giữa với ý là sáng sủa và phương Nam, sau đổi thành cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (quẻ Càn/Kiền với 3 gạch liền) miền Nam dùng và hủy bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng với Pháp, tiến hành việc cứu đói... Chính phủ này chỉ kéo dài được cho tới ngày 25/8 (sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện ngày 14/8).
. Ngày 25/8, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị và chính thức làm lễ bàn giao ấn tín cho đại diện Việt Minh là các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cụ Huy Cận ngày 30/8 trước cửa Ngọ Môn.
. Ngày 17/8, nhân cuộc biểu tình do Tổng Hội Công Chức tổ chức trước dinh Khâm Sai để mừng đất nước hoàn toàn độc lập, ủng hộ Hoàng Đế Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim với khoảng 10.000 người tham dự, nhưng Việt Minh đã chuẩn bị từ trước một số người có vũ trang để cuớp máy vi âm, treo cờ, lôi kéo về phía mình.
. Ngày 19/8, họ đã đánh chiếm một số cơ sở của Pháp hay các đảng phái... cướp chính quyền, còn được gọi là "Cách Mạng Tháng Tám".
. Ngày 2/9/1945, ông Hồ Chí Minh thành lập chính phủ, tuyên bố độc lập ở quảng trường Ba Đình, Hà Nội, lấy quốc hiệu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và quốc kỳ là cờ Đỏ Sao Vàng, cũng hủy bỏ các hiệp ước với Pháp, mở chiến dịch cứu đói...
Ông Hồ Chí Minh du nhập Chủ Nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam, bên cạnh chủ trương đấu tranh giai cấp, tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) cũng đưa ra những hứa hẹn Tự Do, Dân Chủ… nhưng không thực hiện mấy. Cho tới năm 2006, đảng Cộng Sản vẫn còn trì hoãn thực thi Dân Chủ thực sự với lý do dân trí còn thấp, đợi phát triển kinh tế đã!?
3- Đấu tranh dân chủ trước và sau năm 1975
Trước năm 1975, lãnh thổ ở miền Nam mang tên Việt Nam Cộng Hòa, trong phạm vi tự do - dân chủ giới hạn, cũng có một số nhà đấu tranh Dân Chủ, chống chiến tranh đòi Hoà Bình… nhưng không có gì nổi bật lắm. Ở miền Bắc mang tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, có đảng Lao Động và thêm hai đảng là Dân Chủ (mà ông Hoàng Minh Chính làm Tổng Thư Ký), Xã Hội làm cảnh, vì đều do đảng Lao Động chi phối và bị giải tán khoảng vào thập niên 80. Tuy nhà cầm quyền cai trị độc đoán bằng chế độ hộ khẩu và công an, cũng đã có một số người mạnh dạn lên án sự độc tài, thiếu Tự Do - Dân Chủ như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (Văn Cao, Phan Khôi, Trần Dần), nhà văn nữ Thụy An, các ông Nguyễn Chí Thiện, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên…
Sau năm 1975, đảng Lao Động với chiến thắng quân sự, đã chi phối toàn cõi Việt Nam, xuất đầu lộ diện đổi thành đảng Cộng Sản, đã thực thi chuyên chính, trả thù bằng cách bắt giam hàng trăm ngàn người lính miền Nam, cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản, hợp tác xã hóa… đưa đất nước đến điêu tàn, đứng trước vực thẳm. Đến nỗi đại hội đảng lần thứ 6 năm 1985, ông Nguyễn Văn Linh phải tuyên bố: “Đổi mới hay là chết!”, mà thực ra chỉ “đổi mới” đối với đảng Cộng Sản còn đối với đại đa số người Việt là “đổi cũ”.
- Người Việt hải ngoại đã liên tục mạnh mẽ lên tiếng phản đối.
- Năm 1989-1991, chế độ Cộng Sản tại Liên Bang Xô Viết và các nước Đông Âu xụp đổ.
- Từ thập niên 90 thì càng ngày người ta càng thất vọng vì sự bóp nghẹt tự do - dân chủ và sa đọa…, trước tình hình đó, một số nhà trí thức và dư luận trong nước bắt đầu lên tiếng.
- Từ giữa thập niên 90, mặt kinh tế có nhiều cởi mở và phát triển, nhưng hầu hết cán bộ Cộng Sản đều tham ô, xã hội đầy rẫy bất công, nạn cướp đất, nạn bóc lột diễn ra công khai, khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn… nên những tiếng nói đấu tranh ngày một mạnh mẽ và đặc biệt công khai hơn.
- Những người Cộng Sản mang ngọn cờ đấu tranh cho công bằng, bình đẳng xã hội lại ăn trên ngồi chốc, sống xa hoa giàu có và trụy lạc trong khi dân chúng nghèo nàn, thực tế họ đã bỏ rơi lý tưởng và thoái hóa.
- Tại Việt Nam, đảng Cộng Sản đánh phá Tư Sản năm 1954, năm 1975, nhưng khi cán bộ Cộng Sản bóc lột người dân trở nên giàu có, thành tầng lớp Tư Bản Đỏ thì năm 2005 lại cổ võ và tự biến mình thành Tư Sản. Đây là tầng lớp Tư Sản, Tư Bản hình thành nhanh nhất trên thế giới mà chúnng ta biết được, vì hoàn toàn không do tài năng và công sức của họ mà do bóc lột và tham nhũng. Vậy họ là đảng Tư Bản chứ sao lại gọi là Cộng Sản? Đó là một trong những điều rất nghịch lý của Cộng Sản!?
- Nội bộ đảng Cộng Sản cũng phân hóa trầm trọng giữa nhóm bảo thủ và cấp tiến.
- Các nhà Dân Chủ trong và ngoài nước, mà một số lớn lả đảng viên Cộng Sản kỳ cựu và cả các tu sĩ thuộc mọi tôn giáo… ngày càng đông và đến gần với nhau hơn, đã thẳng thắn đòi hỏi bỏ điều 4 hiến pháp vốn cho phép đảng Cộng Sản độc quyền thống trị, đòi đa nguyên đa đảng, đòi đổi tên nước, đặt vấn đề trách nhiệm về nạn “buôn dân, bán nước”… Tóm lại, kinh tế có đi lên đáng kể nhưng tham nhũng và băng hoại càng lúc càng trầm trọng.
- Cuối năm 2005 và qua năm 2006, hàng trăm ngàn người lao động đình công, thương gia bãi thị, nông dân và dân chúng biểu tình, khiếu kiện vì bị bóc lột… đã diển ra khắp nơi trong nước. Tháng 2/2006, nhiều đại diện người lao động đã cùng đưa ra nhận định “Nỗi Niềm Khóc Hận Thương Tâm” gồm 8 điểm làm người ta liên tưởng đến vụ hàng trăm ngàn dân Trung Kỳ kháng thuế gọi là “Trung Kỳ Dân Biến” năm 1908 thời Pháp thuộc và “Yêu Sách 8 Điểm” năm 1919 của nhóm Ngũ Long với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường… gửi Hòa Hội Varseille, Pháp.
- Vụ rải truyền đơn ở đại học Cần Thơ trong dịp Tết Tây 2006 và đại học Hà Nội cũng như nhiều nơi ở Việt Nam trong dịp Tết Ta Bính Tuất đã nói lên phần nào những bất mãn của dân chúng.
- Ngày 1/12/2005, toàn thể 730 nghị viên Quốc Hội Âu Châu đã ra nghị quyết lên án chế độ cai trị tại Việt Nam, Lào, Cam Bốt và kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam bỏ điều 4 hiến pháp.
- Ngày 25/1/2006, Hội Đồng Âu Châu ra nghị quyết 1481, lên án các chế độ Cộng Sản đã tàn sát người hàng loạt như Phát-xít (Fascism, Chủ Nghĩa Dân Tộc Cực Đoan). Nghị quyết có 14 điều rất cụ thể và nghiêm minh, trong đó có Điều 9 nhấn mạnh: “Các chế độ toàn trị Cộng Sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quan điểm về quyền lợi quốc gia không thể được dùng để ngăn chặn sự chỉ trích thích đáng đối với các chế độ toàn trị Cộng Sản hiện nay. Hội Đồng mạnh mẽ lên án tất cả các vi phạm nhân quyền của họ.”.
- Chế độ chỉ huy, bao cấp phá sản, có thể tạm coi như nhà cầm quyền đã cởi mở về kinh tế 70% và chính trị 30% đã làm cuộc sống người dân khá hơn (tăng trưởng đều đặn 7-8%, nhưng thực ra do tài chính và kỹ thuật từ bên ngoài), nên phong trào đấu tranh Dân Chủ vẫn tiếp tục lên tiếng để thực sự có Tự Do - Dân Chủ.
- Trào lưu Dân Chủ cả ở trong và ngoài nước đang tràn dâng càng lúc càng cao ở Việt Nam.
IV- Kết luận: Chúng ta thu thập được bài học gì?
Với thể chế Dân Chủ, từ lâu chính trị Nhật Bản ổn định, người dân sống trong tự do - dân chủ, họ có đầy đủ mọi quyền rồi nên không hề thấy người Nhật nào đứng lên đòi Dân Chủ cả. Vấn đề còn lại là ở những nước theo thể chế Cộng Sản vẫn b ị cai trị bằng đàn áp như Trung Quốc, Việt Nam nên mới có phong trào đấu tranh Dân Chủ.
Từ những điểm khái lược trên của ba quốc gia, chúng ta có thể rút ra một số yếu tố sau.
Bài học từ Nhật Bản:
1- Nhật Bản có một xã hội tương đối đồng nhất và kỷ luật.
2- Thu hóa tư tưởng Vương Dương Minh và Âu-Mỹ qua một số nhà tư tưởng người Nhật, tuy nhiên không có và không dựa trên một chủ thuyết toàn diện duy nhất nào.
3- Đã có nền văn minh khá cao so với các nước trong vùng.
4- Duy Tân và Dân Chủ hóa để theo kịp Âu-Mỹ.
5- Tự cường bằng nâng cao dân trí, khoa học, kỹ thuật.
6- Cố giữ độc lập bằng đường lối ngoại giao đa phương khôn khéo - tham vọng đế quốc.
7- Hiến pháp Nhật Bản sau Thế Chiến Thứ 2, chủ trương xây dựng đất nước trong hòa bình, phú quốc mà không cần cường binh.
Bài học từ Trung Quốc:
1- Chế độ quân chủ lỗi thời.
2- Có những nhà cách mạng có tư tưởng Duy Tân, Dân Chủ.
3- Lập đảng, soạn thảo chủ thuyết.
4- Vận động quần chúng, mộ binh.
5- Hoa kiều khắp thế giới yểm trợ.
6- Cuộc đấu tranh đầy khó khăn đã thành công, nhưng cuối cùng Trung Hoa Quốc Dân Đảng thất bại vì kiêu binh, hủ bại và tham nhũng.
7- Đảng Cộng Sản Trung Quốc thay đổi, chủ trương “3 Đại Biểu” (chấp nhận đảng viên tư sản). Tình hình Trung Quốc luôn có ảnh hưởng lớn tới Việt Nam.
Bài học từ Việt Nam:
1- Dân trí yếu kém, khá rời rạc.
2- Các vận động đấu tranh từ cục bộ thành toàn quốc.
3- Lập đảng, soạn thảo chủ thuyết.
4- Vận động quần chúng và tranh thủ dư luận quốc tế.
5- Đảng Cộng Sản lộ rõ tính phi hiện thực và các sai lầm trầm trọng.
6- Kiều bào (Việt kiều) khắp thế giới yểm trợ cuộc đấu tranh Dân Chủ.
7- Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục đổi mới. Cuộc đấu tranh Dân Chủ hóa tiếp diễn bền bỉ trong tinh thần bất bạo động (đôi khi bạo động?)…
Bài viết này, nhằn ôn lại qua trình đấu tranh Dân Chủ hơn 1 thế kỷ qua tại mấy nước Á Châu, để thấy được các nỗ lực ấy đã diễn ra như thế nào và đạt kết gì? Từ đó, chúng ta có thể rút ra bài học biện chứng lịch sử mang những yếu tố phức tạp và quyết định nào? Quá khứ thì như vậy, còn tương lai ra sao? Vì sự hạnh phúc thực sự của dân tộc, vì sự thịnh vương của đất nước chúng ta sẽ phài làm gì? Những người lớn tuổi chắc đã biết khá rõ về những điều ghi ra trong bài viết, với những người trẻ tuổi, hy vọng bài viết này giúp nhìn lại quá khứ, để có tầm nhìn chính xác hơn về dự phóng tương lai. Dân tộc, đất nước hưng vong đều tùy thuộc ở mỗi con dân Việt, nếu chúng ta ít nhiều trách cứ người xưa, tiếc nuối những cơ hội lịch sử bị bỏ lỡ, hổ thẹn vì sự tụt hậu… thì chúng ta lại càng phải cố gắng hơn trong hiện tại để mai sau, con cháu chúng ta sẽ không đánh giá chúng ta như vậy nữa. Hiện nay, cả trong và ngoài nước chưa có những tổ chức tầm vóc, nên cuộc đất tranh Dân Chủ vẫn mới chỉ như một phong trào trải mỏng đang lan rộng trong quần chúng. cần nhiều nỗ lực vận động và tập hợp hơn nữa. Lịch sử chuyển biến liên tục không chờ đợi ai, khi thì tiệm tiến, khi thì đột biến, nhưng mỗi người đều có vai trò và trách nhiệm trong đó.
Chủ Nghĩa Cộng Sản tuy ban đầu đã thắng lợi nhất thời trên nhiều quốc gia, chi phối 1/3 thế giới trong gần 1 thế kỷ, nhưng rồi tới cuối thế kỷ thứ 20 đã hoàn toàn tan rã vì tính phi hiện thực, phản khoa học, rất kém hiệu quả về kinh tế và nhất là vì sự tàn ác của nó, chỉ còn 4 nước theo đuổi trên hình thức là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba (có thể thay đổi sau khi Fidel Castro qua đời?). Đảng Cộng Sản tại các nước lớn như Nhật, Pháp, Ý.... đều đã từ bỏ đấu tranh giai cấp và hầu hết tư tưởng của Mác-Lê…
Chứng nghiệm thực tế khoảng 1 thế kỷ qua về “hai đứa con song sinh của Âu Châu” là Chủ Nghĩa Dân Chủ - Tư Bản và Chủ Nghĩa Cộng Sản - Độc Tài, Tư Bản đã có những bóc lột quá đáng như “cần ga” đạp quá đà, còn Cộng Sản là một phản đề như “cần thắng” giữ cho “chiếc xe nhân loại” được an toàn, chứ Cộng Sản không thể làm đối trọng và có thể thay thế Tư Bản. Cần thắng không bao giờ có thể thành động lực cho chiếc xe chạy được. “Chiếc xe nhân loại”, tất nhiên kể cả Công Sản trong đó, cũng đều phải đi theo hướng chung của Dân Chủ - Tư Bản chứ không phải Độc Tài - Cộng Sản.
Khát vọng tự nhiên và muôn đời của con người vẫn là Tự Do - Dân Chủ, từ trước khi ý niệm này được nhận thức rõ ràng và viết ra một cách hệ thống, cũng như bản năng hướng thượng là lẽ tự nhiên, nên luôn luôn phải được coi là nền tảng xây dựng xã hội. Tầng lớp dân chúng có ý thức cụ thể về Dân Chủ cũng ngày càng đông hơn. Đã có những sự tiến bộ đáng kể trong phương thức đấu tranh và tư duy. Bao giờ cũng vậy, tư tưởng đúng thì hành động đúng, nên cuộc đấu tranh càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Cuộc đấu tranh tư tưởng, vận động quần chúng còn dài, nhưng chắc chắn dân tộc Việt sẽ đạt được ước nguyện Dân Chủ hóa và Duy Tân đất nước của mình để thu ngắn sự tụt hậu, theo kịp đà tiến hóa của nhân loại.
- - -
Thêm nữa, mang danh nghĩa “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại.”, rồi “Các nước Xã Hội Chủ Nghĩa anh em.”, nhưng rồi chuyện trớ trêu nhất đã xảy ra khi các nước Cộng Sản dùng bạo lực với nhau. Cộng Sản Nga Xô và Cộng Sản Trung Quốc tranh chấp về ý thức hệ và đánh nhau (1969, tại Hắc Long Giang), Cộng Sản Trung Quốc đánh Cộng Sản Việt Nam (2 lần, lần đầu từ 16/2/1979 kéo dài 1 tháng tại 6 tỉnh dọc biên giới, lần 2 từ 1884 tới 1988 tại Hà Giang), Cộng Sản Việt Nam đánh Cộng Sản Cam Bốt (1976, 77, 78-1989)!
- - - -
ĐỀ NGHỊ MỘT GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM…
1- Có gì mới?
Bài viết này thu thập một số kinh nghiệm lịch sử đấu tranh Dân Chủ, cho thấy lý tưởng Tự Do - Dân Chủ nêu lên thì dễ, nhưng thực hiện rất khó khăn, vì:
a- Nhà cầm quyền luôn luôn ở tư thế muốn hạn chế Tự Do - Dân Chủ cho dễ cai trị.
b- Nhiều người lãnh đạo đấu tranh chưa đủ dấn thân, chưa gây đủ uy tín, chưa đưa ra được đường lối cụ thể có tính thuyết phục, chưa vận động đúng mức.
c- Dân chúng vốn thường an phận, chưa ý thức đẩy đủ về sự lợi-hại giữa cũ-mới. Phải đẩy mạnh việc khai dân trí nâng cao dân khí.
d- Cần kiên nhẫn hoạt động và chờ thời cơ đủ chín mùi… Sự nóng vội sẽ làm cuộc cách mạng bị đẻ non và chết yểu.
đ- Với kinh nghiệm hơn 1 thế kỷ qua, hy vọng chúng ta sẽ rút ra được những bài học, tránh phí phạm nhân lực, vật lực và thời gian…
2- Thay đổi tư duy
Đây là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy bánh xe lịch sử. Qua hơn 1 thế kỷ, hẳn nhiên dân trí và dân khí Việt đã được nâng cao rất nhiều. Tuy nhiên về vấn đề dân khí, thường bị nhà cầm quyền và nhiều thế lực khác tìm cách lèo lái theo chiều hướng mà họ mong muốn hay bị đe dọa nên không phát huy trọn vẹn được... Đó là lý do khiến cho cuộc đấu tranh Dân Chủ gặp khó khăn trong việc tập hợp. Xin lưu ý, có nhiều nhà cầm quyền thấy được sự hấp dẫn, hợp lý và hợp lòng người của Chủ Nghĩa Dân Chủ vì căn bản giúp tiến bộ mà tránh được bạo động, xáo trộn lớn… thì họ cũng giương cao ngọn cờ này, nhưng chỉ nêu lên để trang trí còn thực tế thì hành động ngược lại. Tuy nhiên, những trở lực này chỉ có thể làm cản trở, làm chậm bước, chứ không thể ngăn cản tiến trình Dân Chủ hóa đất nước là trào lưu chung của thế giới.
Kinh Tế và Dân Chủ có thể ví như “hai chân” của một người. Đồng ý Kinh Tế thực tiễn có thể đi trước một bước, nhưng nếu đi nhiều bước mà chân Dân Chủ mới nhúc nhích một chút thì khoảng cách sẽ thành quá xa, hai chân sẽ xoạc ra mà té! Xã hội mất thăng bằng. Nhà nước Việt Nam nói “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (kết hợp hai yếu tố trái nghịch), ưu tiên Kinh tế còn Dân Chủ tính sau, cho cán bộ làm thương mại (mà họ vốn kết án là bóc lột và kịch liệt đả phá, tìm cách tận diệt)… là đang tìm cách trì hoãn, nhằm củng cố địa vị và vơ vét nhiều hơn.
Nguời được gọi là trí thức, cần can đảm nhanh chóng nhận thức và tự thay đổi tư duy theo trào lưu mới, tiên phong đưa ra những cải cách thể chế chính trị, xã hội một cách thực tế… nhằm đáp ứng nhu cấu bức thiết của đại đa số quần chúng, rồi truyền đạt lại cho mọi người để vận động thực thi. Sự thay đổi toàn diện có thể gây ra một số xáo trộn, nên phải chứng minh là lợi cập hại (lợi nhiều gấp bội hại, cần sớm thay đổi để hội nhập và theo kịp đà tiến chung của nhân loại). Những cuộc đấu tranh Dân Chủ luôn cần có sự kết hợp mọi tầng lớp, một số khá nhiều người quan tâm tới vận mệnh quốc gia, dân tộc đang mạnh dạn lên tiếng là dấu hiệu rất phấn khởi chung. Cho đến nay, Dân Chủ là thể chế lý tưởng nhất để đưa đất nước đi lên, ưu điểm của nó là cho phép tự hoàn chỉnh trong ôn hoà, vì thể chế Dân Chủ nào cũng cho tự do lên tiếng nói nhưng ngăn cấm bạo động.
3- Về lực lượng đấu tranh:
Giới già - giới trẻ
Về lực lượng đấu tranh, cần tư tưởng chỉ đạo, có tư tưởng chỉ đạo lại cần phải có lực lượng đủ mạnh để thực thi. Người ta hay nói đến sự cách biệt thế hệ già trẻ, nhưng thực ra dân tộc nào cũng bao gồm những lứa tuổi nối tiếp nhau liên tục chứ không có khoảng cách giữa các thế hệ. Già là người đã từng trẻ, trẻ là người sẽ già. Thêm nữa, cuộc đấu tranh thường kéo dài, ai thì cũng qua hai giai đoạn trẻ-già ấy. Chưa kể có người thân xác già mà tinh thần trẻ, vẫn hăng say hoạt động, có người trẻ mà tư duy đã già, chỉ lý luận loanh quanh để tránh né hoạt động.
Nếu hỏi ai sẽ đứng lên đấu tranh? Thì đó chính là người dân. Trong tinh thần tự chủ, tự lập, chúng ta không mong đợi Tự Do - Dân Chủ được ban phát hay ai làm thay chúng ta, mà chính chúng ta phải tự đứng lên đòi lại những quyền căn bản mà nhà cầm quyền đã tước đoạt.
Xã hội là kết hợp nhiều thành phần: sĩ, nông, công, thương, binh. Là kết hợp của nam nữ, lão ấu. Nhưng giới trẻ chính là lực lượng rường cột, xung kích. Với năng lực dồi dào, nhận thức đổi mới cao, luôn là động lực thúc đẩy những chuyển biến xã hội. Kinh nghiệm của giới già, kết hợp hài hòa với giới trẻ là sự kết hợp lý tuởng nhất, giúp cho công cuộc đấu tranh cho Tự Do - Dân Chủ đi đúng hướng.
Quốc nội - quốc ngoại
Lực lượng dân tộc với tuyệt đại đa số 85 triệu người trong nước ở tuyến đầu, đương nhiên là chủ lực điều hướng công cuộc đấu tranh cho Tự Do - Dân Chủ.
Năm 1905, khi cụ Phan Bội Châu qua Nhật Bản không có người Việt Nam nào ở đó, cũng như sau này khi qua Trung Quốc chỉ có vài chục người Việt Nam, năm 1911, khi cụ Phan Châu Trinh qua Pháp cũng chỉ có vài chục đến trăm người Việt Nam, nên các cụ chiến đấu trong cô đơn, không có lực lượng hậu thuẫn hùng hậu như Tôn Văn được Hoa Kiều khắp nơi hỗ trợ dẫn đến Cách Mạng Tân Hợi 1911 thành công.
Nhưng nay chúng ta có khoảng 3 triệu người Việt Nam trên 90 quốc gia, đó là lực lượng vô cùng to lớn, có thể hỗ trợ đắc lực cho những cuộc đấu tranh chính nghĩa tại quốc nội.
Kết hợp nhịp nhàng lực lượng trong ngoài nước sẽ thúc đẩy công cuộc đấu tranh cho Tự Do - Dân Chủ mau đi đến thành công hơn.
4- Thể chế Dân Chủ tại Việt Nam trong tương lai
Nhiều người đặt câu hỏi, liệu thể chế Dân Chủ trong tương lai ở Việt Nam có dung nhận đảng Cộng Sản hay không?
Về mặt lý thuyết, Dân Chủ là:
a- Nhân dân làm chủ đất nước mình.
b- Hiện thực bằng thể chế Dân Chủ.
c- Chọn lựa quyết định theo đa số (nhưng vẫn tôn trọng ý kiến của thiểu số, chứ không dùng đa số tiêu diệt thiểu số).
Khi nói đa nguyên, đa đảng thì không có điều lệ loại trừ Cộng Sản đi kèm. Như trong các nước Dân Chủ, các đảng phái tự do hoạt động, mọi người tự do theo Dân Chủ hay Cộng Sản, kể cả các khuynh hướng Tự Do, Xã Hội, Bảo Thủ hay Cấp Tiến... Điều quan trọng là Tự Do trong tinh thần bất bạo động, mọi thể chế Dân Chủ chỉ cấm bạo động, công an, cảnh sát, quân đội là công cụ của nhân dân chứ không của đảng phái, nên đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị. Sự hận thù cao độ giữa các đảng phái có thể nghĩ đến chuyện không đội trời chung mà chỉ có tiêu diệt nhau là chưa thể hiện đúng tinh thần Dân Chủ và xin đừng quên rằng quyền quyết định tối hậu thuộc về nhân dân, thể hiện qua bầu cử.
Các đảng phái, khuynh hướng có thể cực đoan, nhưng không được dùng bạo động để tiêu diệt nhau, mà chỉ có thể tranh đua qua việc quảng bá để thu hút sự ủng hộ của quần chúng… Trong một xã hội Dân Chủ, nếu đảng Cộng Sản không thay đổi, có thể sẽ bị co rút, tự cô lập hay tự triệt tiêu vì tính bất cập như tại các quốc gia Tây Âu, Đông Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản… thế nên trong một thể chế Dân Chủ thực sự, sự có mặt của Cộng Sản không phải là điều đáng lo ngại. Mâu thuẫn quyền lợi là điều phát sinh tự nhiên trong mọi xã hội, do đó, Dân Chủ là phương thức để điều hòa, chỉ bảo đảm đáp ứng đa số mà thôi, chứ không hề bảo đảm thỏa mãn yêu cầu của tất cả mọi người.
5- Giải pháp nào cho Viêt Nam?
Nói chuyện cũ tất nhiên dễ hơn nói chuyện mới, phải có giải pháp nào cho Việt Nam đây? Tuy biết là khó, nhưng để kết thúc, chúng tôi cũng xin được nêu thiển ý.
Hãy thay đổi tư duy để học hỏi và học hỏi để thay đổi tư duy, đó là hai bước song hành và hỗ tương để khai dân trí, nâng cao dân khí mà hai cụ Phan đã từng đề cập đến từ cả thế kỷ trước. Giải pháp tốt nhất hay chìa khóa vạn năng giúp giải quyết vấn nạn cho Việt Nam từ bao đời qua vẫn là một nền giáo dục. Vì vậy, phải gấp rút đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, mở thêm trường lớp, phòng thí nghiệm, tạo điều kiện cho nhiều người được học hỏi và nghiên cứu. Nội dung giáo dục bao gồm như:
a- Nhân bản, hòa đồng, đoàn kết, yêu đồng loại, yêu thiên nhiên.
b- Luyện tập thể xác lành mạnh và tinh thần hướng thượng.
c- Đề cao tinh thần đạo đức, luân lý, thượng tôn luật pháp.
d- Khách quan, khơi động lòng yêu nước mà không lệ thuộc đảng phái nào.
đ- Thực nghiệm và thực dụng, giúp suy nghĩ và làm việc một cách khoa học.
e- Giúp nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần của bản thân và xã hội.
g- Khuyến khích tinh thần phục sự xã hội, dấn thân, mạo hiểm...
- - - - -
NHỮNG VẬN ĐỘNG TRONG TRÀO LƯU MỚI
Đầu thế kỷ 21, những năm 2000, đặc biệt từ năm 2005 đến 2007, xuất hiện rất nhiều hoạt động đấu tranh công khai bằng các bài viết, tuyên ngôn, đặc biệt về vấn đề Dân Chủ hóa và bảo vệ người Lao Động qua việc ra báo, phân phát các tài liệu hay khi trả lời các cuộc phỏng vấn của các cơ quan truyền thông Việt Nam ở hải ngoại và quốc tế. Rất nhiều nhà đấu tranh Dân Chủ và Lao Động ở trong và ngoài nước đã kết hợp lại thành các đảng phái, tổ chức và thẳng thắn nói lên lập trường của mình.
Có người cho rằng, những bước tiến lớn trong công cuộc đấu tranh mới đây bằng cả 30 năm qua, hay nói khác đi đó là kết tinh của thành quả của 30 năm qua.
…
- 22/11/1975, Ðại Ðức Thích Huệ Hiền và tất cả Tăng Ni ở chùa Dược Sư, Cần Thơ, tổng cộng 12 vị, đã tự thiêu tập thể nhằm phản đối sự đàn áp của chế độ CSVN. Trong bản tuyên bố để lại đã nêu rõ: "Chúng tôi sắp sửa thể hiện việc thiêu thân để bảo toàn Chánh Pháp, để bảo vệ danh nghĩa tại địa phương cũng như toàn quốc... Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho người mê muội vô ý thức... Chúng tôi, Tăng Ni chùa Dược Sư, thiết tha kêu gọi quý vị hãy tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả mọi tôn giáo... Chúng tôi quyết nguyện thiêu thân hôm nay vì chúng tôi nghĩ thà chết vinh hơn sống nhục, thà chết cho chân lý đạo nghĩa hơn sống mà phải theo tà thuyết hại dân.". Từ năm 1975 tới nay đã có khoảng 25 tu sĩ phật Giáo tự thiêu để phản đối sự đàn áp của chế độ.
- Ngày 28/8/1976, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt vì hoạt động đấu tranh Dân Chủ, lần đầu tiên bị bắt giam, năm 1988 mới được thả ra, sau đó đã viết “Thơ Tù: Đóa Từ Tâm”. Những biến động ở Đông Âu và Liên Xô đã củng cố niềm tin của ông rằng hệ thống cộng sản ở Việt Nam cũng sẽ tự sụp đổ ngay từ bên trong. Ông đã đưa ra cuốn băng Toàn Dân Vận Động Cho Dân Chủ và tập san Diễn Đàn Tự Do nên tháng 11/1990 ông lại bị bắt cùng một số thân hữu. Trong tù ông quyết định cũng không thể im lặng vì hiểu rõ rằng trong chế độ công an trị cộng sản im lặng là tự sát, nên đã cố gắng bí mật chuyển những văn bản ra ngoài và ra hải ngoại.
- 1978, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và 47 thành viên trong Mặt trận Dân tộc Tiến Bộ tranh đấu bất bạo động và do ông thành lập, bị nhà nước CSVN bắt và giam cầm không xét xử. Năm 1988, ông được phóng thích. Năm 1990, ông thành lập tổ chức Cao Trào Nhân Bản và công bố "Lời Kêu Gọi của Cao Trào Nhân Bản", tiếp tục đòi hỏi nhà nước tôn trọng nhân quyền, đa nguyên chính trị và tuyển cử tự do. Ông bị bắt lại ngay sau đó và bị tuyên án 20 năm khổ sai, cộng thêm 5 năm quản thúc tại gia, vì tội "âm mưu lật đổ chính quyền". Tháng 9/1998, trước áp lực của quốc tế, nhà nước trả tự do nhưng từ chối rời khỏi Việt Nam.
- Năm 1978, ông Nguyễn Mạnh Bảo, thuộc nhóm của cố Học Giả Hồ Hữu Tường bị bắt vì gửi 4 bản tham luận (Văn Hóa Toàn Hành Tinh – Hòa Bình Toàn Hành Tinh - Đường Lối Dân Tộc - Đường Lối Dân Tộc Qua Những Chặng Đường Lịch Sừ) cho 5 quốc gia thường trực Hội Đồng Bảo An và Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Nhóm này chủ trương không theo Cộng Sản cũng không theo Tư Bản, mà Trung Lập và dựa vào dân tộc. Năm 1988, bị xử tử hình nhưng giam tới năm 2002 thì thả ra, tổng cộng bị giam 24 năm.
- Năm 1979, Thượng Thích Thiện Minh (trùng tên với một Hoà Thượng đã mất) làm cố vấn cho một tố chức đầu tranh bị bắt và kết án tử hình, sau giảm xuống chung thân, ông bị tới 2 án chung thân, rồi bị tù cho tới năm 2005, tổng cộng 26 năm trong đó có 6 năm biệt giam. Ngày 20/1/2007, cuốn "Hồi Ký 26 Năm Tù Của Thích Thiện Minh" đã được ra mắt tại San Jose, Hoa Kỳ…
- 1988, cố Tổng Giám Mục Huế, Philipphê Nguyễn Kim Điền bị CS thủ tiêu đã từng nói: "Xưa nay từng có Giám mục chết vì tôn giáo. Đã có Giám mục nào chết cho nhân quyền chưa? Nay tôi hân hạnh chịu chết như vậy!". Ai cũng biết rằng trong tư cách một con người, một công dân và một Kitô hữu, nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền (gồm cả các Linh Mục Chân Tín, Phạm Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, Nguyễn Văn Lý…) đã luôn tranh đấu cho tự do tôn giáo lẫn tự do chính trị/dân sự là hai mặt của cùng một thực thể: nhân quyền. Một bậc chân tu -sống đạo vì đời- không thể nào chỉ đòi hỏi tự do tôn giáo mà thôi.
- 1989, Nhà Văn Dương Thu Hương, từng là quân nhân, Trong Đại Hội Nhà Văn, bà viết bài phát biểu “Ðảng nên cám ơn nhân dân.”… nên bị khai trừ khỏi đảng. Bà là người sớm phản tỉnh, đã gục khóc ngay khi vừa vào đến Sài Gòn cuối năm 1975 vì thấy được sự tự do và trú phú của miền Nam, nhưng biết rằng rồi đây sẽ điêu tàn, và rằng: “Chế độ chiến thắng chẳng qua chỉ là một thể chế man rợ.”, “Cuộc chiến tranh chống Mỹ là cuộc chiến tranh ngu suẩn nhất trong lịch sử dân tộc.”. Bà đã viết nhiều sách như Hành Trình Ngày Thơ Ấu, Bên Kia Bờ Ảo Vọng (in 100.000 cuốn), Thiên Đuờng Mù (được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và Nhật...), Quãng Đời Đánh Mất, Tiểu Thuyết Vô Đề (Khải Hoàn Môn), Hồi Quang Của Mùa Xuân - Memory of a Pure Spring…đặc biệt cuốn Chốn Vắng đã được đưa lên truyền hình Pháp TF1. Bà viết rất nhiều bài như Tiếng Vỗ Cánh Của Bầy Quạ Đen (nói về vấn đề nhượng biên giới)… lên án các lãnh tụ và chế độ bằng cả những lời lẻ chửi rủa nặng nề, đanh đá. Bà thường xuyên bị theo dõi, chiêu dụ. Bà kể: “Ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh sẵn sàng cấp cho tôi một căn nhà tiêu chuẩn Bộ Trưởng nếu tôi im lặng.”, tôi nói với ông ấy: “Tôi đấu tranh cho dân chủ, tôi đứng về phía nhân dân và sẽ chẳng bao giờ đồng ý làm một thứ Bộ Trưởng. Nguyên tắc của tôi là người ta có thể mất hết, thậm chí mạng sống, nhưng không bao giờ để mất danh dự.”. Do đó, bà liên tục bị trù dập, bị kết án là “con đĩ phản bội”, 2 lần bị ám sát hụt… Năm 1991, bà đã từng phải vào tù 8 tháng về tội “gián điệp bán tài liệu cho ngoại bang” thực ra chỉ là định đưa tác phẩm của bà ra nước ngoài, bà đã viết thư thách thức Trung Tướng công an Dương Thông vì bà nắm được tẩy bê bối của ông này... Bà được chính vợ Tổng Thống Pháp Danielle Mitterrand can thiệp và đánh đổi với cả trăm triệu Mỹ Kim viện trợ để thả bà ra.
- Tháng 9/1990, cựu Đại Tá Bùi Tín, năm 18 tuổi tham gia quân đội thời “Cách Mạng Tháng 8” năm 1945 (37 năm), gia nhập đảng viên CSVN năm 1946 (44 năm tuổi đảng), làm báo Quân Đội Nhân Dân, Phó Tổng Biên Tập nhật báo Nhân Dân kiêm Tổng Biên Tập tuần báo Nhân Dân Chủ Nhật (đã cùng ông Vũ Kỳ là Bí Thư của ông Hồ Chí Minh đưa ra ngày chết thật HCM là 2/9/1976 trùng ngày Quốc Khánh CSVN thay vì 3/9 như được công bố và di chúc thật), là sĩ quan cao cấp nhất đầu tiên vào Dinh Độc Lập trên chiếc xe tăng thứ 3 với tính cách nhà báo ngày 30/4/1975... nhân khi đi dự lễ kỷ niệm báo L'Humalité (Nhân Đạo) của đảng Cộng Sản Pháp, ông đã xin tỵ nạn chính trị. Ông đã trả lời hàng loạt cuộc phỏng vấn trên đài BBC và đưa ra bản “Kiến Nghị Của Một Công Dân”… gây chấn động dư luận. Sau đó ông viết cuốn Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật, Mây Mù Thế Kỷ, Ba Ông Thánh, From Enermy To Friend và rất nhiều bài báo, từ phê phán dần dần thành lên án chế độ. Ông cho hay: “Tôi hối hận là đã nhìn ra điều ấy chậm (sau 1975), nhưng tuy chậm còn hơn là không.”. Song song với việc từ bỏ quân hàm và tất cả những huy chương đã nhận lãnh, ông đi khắp nơi kêu gọi Dân Chủ Đa Nguyên. Về nghị quyết 36 của nhà cầm quyền đối người Việt hải ngoại, ông cho rằng “ngạo mạn” và thiếu 2 chữ “xin lỗi”.
- Ngày 4/9/1992, cựu sĩ quan Không Quân VNCH Lý Tống (tên thật là Lê Văn Tống, đơn vị Ó Đen, người từng lái chiến đấu cơ phản lực A37, bị bắn rơi tại Phan Rang vào những ngày cuối trước khi miền Nam xụp đổ, bị bắt giam, sau đó vượt ngục và năm 1983, vượt biên đường bộ qua Cam Bốt, Thái, Mã Lai tới tỵ nạn tại Tân Gia Ba (Singapore) qua đoạn đường dài 8.000 km, định cư tại Hoa Kỳ năm 1984) từ Hoa Kỳ bay qua Thái Lan, rồi cưỡng bách chuyến bay của Hàng không Việt Nam VN850 từ Bangkok về Sài Gòn thả truyền đơn kêu gọi nổi dậy trên bầu trời thành phố nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng Thống Clinton. Ông nhảy dù xuống, sau đó bị bắt xử 20 năm tù, nhưng được thả ra vào tháng 9/1998. Ngày 1/1/2000, ông đã thuê máy bay nhỏ từ Miami, Florida, bay thả truyền đơn trên thủ đô Haneva của Cuba, người Cuba Tự Do coi ông như “Anh Hùng”. Ngày 17/11/2000, ông lại từ Hoa Kỳ bay qua Thái, mua chuộc huấn luyện viên Thái lái 1 máy bay nhỏ từ Bangkok tới thả 50.000 truyền đơn trên bầu trời Sài Gòn lần thứ 2. Khi trở lại Bangkok, ông đã bị bắt và xử 7 năm tù. Ngày 17/5/2006, ông mãn hạn với chút ân giảm, liền bị tòa Thái phán giam tiếp chờ dẫn độ về Việt Nam, ông kháng án và hiện đang chờ phán quyết chung cuộc. Ông được mệnh danh là “Freedom Fighter” (Chiến Sĩ Tự Do).
- Ngày 17/11/1993, Giáo Sư Nguyễn Đình Huy bị bắt khi ông sửa soạn tổ chức buổi Hội Thảo Quốc Tế Phát Triển Việt Nam dự định ngày 27/11/1993 tại Sài gòn, với sự bảo trợ của Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do và Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, dự trù có khoảng 30 chánh khách quốc tế từ Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu và Á Châu đến dự. Ông gia nhập Đảng Đại Việt, cùng với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy sáng lập viên đảng Tân Đại Việt (Sài gòn, 1964), làm Phó Tổng Bí Thư và GS Huy làm Tổng Bí Thư. Phó Tổng Thư Ký của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, Phó Tổng Thư Ký của Liên Minh Dân Chủ Xã Hội. Sau 30/4/1975, ông đã bị đi tù 17 năm cho đến tháng 1/1992. Tháng 7/1992, ông cùng một số đồng chí bí mật thành lập Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc & Xây Dựng Dân Chủ tại Việt Nam, và tổ chức này đã chính thức ra mắt bởi những người đại diện ở Hoa Kỳ ngày 12/11/1992 tại Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ, dưới sự bảo trợ của Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do (ICFV). Ngày 11/8/1995, ông cùng 8 người thuộc nhóm lãnh đạo PTTNDT & XDDC bị toà án CSVN xử gần như bí mật, không luật sư biện hộ với án tù 15 năm. Cho tới năm 2007, GS Nguyễn Đình Huy và Nhà Báo Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân (Phó Chủ Tịch Phong Trào) vẫn tiếp tục bị giam giữ. Cả hai ông đều được trao tặng Giải Thưởng Tự Do Phát Biểu năm 1997 và 1998 của tổ chức Human Right Watch ở New York.
- Năm 1994, Nhà Văn Dương Thu Hương được Pháp can thiệp cho đi Pháp, được Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp, ông Jacques Roubon, trao tặng huân chương Bội Tinh Văn Hóa Nghệ Thuật. Bà được đề nghị hưởng quy chế tị nạn chính trị. “Tôi trả lời, cám ơn, nhưng ở nước tôi, sự sợ hãi đang nghiền nát mọi thứ, những người lính can đảm đã trở nên thường dân hèn nhát. Vì vậy tôi phải trở về. Tôi trở về để làm điều duy nhất: phỉ nhổ vào mặt chế độ.”. Tháng 7/2005, bà qua Ý lãnh giải thưởng Văn Chương. Tháng 4/2006, bà được mời sang Pháp và sau đó ngày 26/4 đã sang New York, Hoa Kỳ trình bày đề tài “Niềm Tin Và Lý Lẽ” tại hội nghị "Faith & Reason: Writers Speak" (Pen Wolrd Voices) do Văn Bút Quốc Tế tổ chức. Nhưng rồi lần này khi về lại Pháp bà đã xin tỵ nạn.
- Ngày 5/12/1995, Tiến Sĩ Hà Sỹ Phu, tác giả các bài: "Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ" (1988), "Đôi điều suy nghĩ của một công dân" (1993), “Chia Tay Ý Thức Hệ” (1995), “Muốn Đoàn Kết Dân Tộc, Phải Bỏ Chủ Nghĩa Mác- Lênin” bị dàn cảnh đụng xe để bắt và đưa ra xử ngày 22/8/1996 với án 1 năm tù, được thả ngày 4/12/1996… Mỗi năm thường đưa ra câu đối Tết về tình hình đất nước.
- Năm 1997, Phó Tiến Sĩ, Nhà Văn Tiêu Giao Bảo Cự, Thường Trực Hội Văn Nghệ Lâm Đồng cùng với Nhà Văn - Nhà Thơ Bùi Minh Quốc đi vận động bắc-nam. Tác giả cuốn “Nửa Đời Nhìn Lại” (1994, 1997), Nhật ký Tôi Bày Tỏ (viết về 3 năm: 1996-1998), “Hành Trình Cuối Đông” (1998), “Trên Cả Hận Tthù” (2004)… bị quản chế 2 năm 1997-1999.
- Ngày 12/1997, Tiến Sĩ Phan Đình Diệu, Dân Biểu năm 1976, là người đã thiết lập Trung Tâm Tin Học đầu tiên tại Hà Nội. Phó Chủ Nhiệm Chương Trình Công Nghệ Thông Tin năm 2000 và là thành viên Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc, tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Việt Nam, cổ võ đa nguyên, viết bài "Về Yêu Cầu Tiếp Tục Ðổi Mới Trong Giai Ðoạn Hiện Nay"… cho rằng đảng CSVN chỉ đổi mới nửa vời và khẳng định là yêu cầu dân chủ hóa chính trị đã trở nên hết sức bức thiết.
- Năm 1998, nhờ sự vận động tích cực của dư luận, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt và các bạn được ra khỏi nhà tù sau 8 năm bị giam giữ, ông qua Hoa Kỳ đoàn tụ gia đình. Trước khi được thả ra và đi Hoa Kỳ, 1/6/1998, The WAN Golden Pen of Freedom (World Association of Newspapers) trao giải Golden Pen (Ngòi Bút Vàng) tại Kyoto, Nhật Bản vì những thành tích đấu tranh và bị tù 20 năm, bà Đoàn Viết Hoạt đã từ Hoa Kỳ đi lãnh giải thay chồng và được Thiên Hoàng Bình Thành (平成 = Heisei) thăm hỏi. Tuyên bố của của WAN khi trao giải: "Chính quyền Việt Nam vẫn bỏ ngoài tai những kêu gọi Dân Chủ và Nhân Quyền của ông Hoạt và những người khác. Ngày nay, dù cởi mở kinh tế, đ ảng Cộng Sản vẫn nắm giữ, kiểm duyệt báo chí và những phương tiện truyền thông điện tử...". Ông viết rất nhiều bài, trong số đó có bài “Việt Nam: Con Đường Tiến Đến Dân Chủ” năm 2002. Năm 2005, ông đã ra mắt tác phẩm Hành Trình Dân Tộc Trong Thời Đại Toàn Cầu Hóa, theo ông thì xây dựng dân chủ là mục tiêu trọng tâm vì tự do dân chủ là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
- Ngày 4/3/1999, Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang (người mà năm 1980, trong một buổi họp tổ của Quốc Hội, ông Phan Ðình Diệu tuyên bố rằng "Ðồng chí Lê Duẩn là một người vĩ đại, nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu bây giờ tuyên bố từ chức.”), là tác giả nhiều bài chống đối như "Nhân Quyền: Khát Vọng Ngàn Ðời" (1996), "Bầu Cử và Quốc Hội" (1997), "Thử Bàn Về Giai Cấp Công Nhân Việt Nam" (1998)... ông bị bắt, trước áp lực của dư luận, ông được thả ra ngày 10/5/1999. Trước đó, ngày 4/3/1997, bị gọi lên Ban Văn Hoá Trung Ương đối chất, 25/3/1997, bị mời lên Mặt Trận Tổ Quốc chất vấn. Tháng 12/1998, đánh dấu 50 năm ngày công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, ông viết “Suy Gẫm 50 Năm Nhân Quyền” về tình trạng vi phạm hiện nay tại Việt Nam...
- Tháng 4/1999, Nhà Văn Hoàng Tiến, hội viên Hội Văn Học Hà Nội, lên án chế độ Hà Nội chà đạp tự do dân chủ, vi phạm nhân quyền. Trước đó, ngày 30/11/1996, đã đưa ra đề nghị cho báo chí tự do, thực hiện đúng điều 69 ghi trong Hiến Pháp về quyền công dân. Ông bị bắt trên đường phố, bị giam 2 ngày, năm 2006, cùng thân hữu tự ý phát hành và làm Tổng Biên Tập tập san Tự Do & Dân Chủ.
- Ngày 11/5/1999, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế ra một thông cáo kêu gọi nhà nước dân chủ hóa đất nước. Tháng 3/2003, ông lại bị bắt giữ vì ông đã gửi văn kiện chỉ trích nhà nước đến anh của mình là Bác Sĩ Nguyễn Quốc Quân tại Hoa Kỳ. Ngày 29/7/2004, tòa án nhà nước Việt Nam lần nữa kết án ông 30 tháng tù về tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước". Vào trước Tết năm 2005, ông là một trong những tù nhân chính trị được thả ra.
- Năm 2000, Phong Trào Hiến Chương 2000 ra đời, do Tiến Sĩ Nguyễn Bá Long ở Gia Nã Đại làm đại diện.
- Ngày 25/4/2000, Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, 81 tuổi, bị tù và quản chế (tới nay đã khoảng 30 năm) tại Quảng Ngải, Viện Trưởng Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã đưa ra lời kêu gọi nhà cầm quyền CSVN lấy ngày 30/4 mỗi năm làm “Ngày sám hối và chúc sinh toàn quốc”.
- Ngày 5/2/2001, sau khi thành lập Hội Ðồng Liên Tôn Việt Nam nhằm đòi tự do tôn giáo và nhân quyền cho Việt Nam, tất cả các thành viên Hội Ðồng như Hòa Thượng Thiện Hạnh, Thượng Tọa Thái Hòa, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Linh Mục Chân Tín và cụ Lê Quang Liêm, đều bị đàn áp và tấn công thô bạo bởi các cơ quan truyền thông nhà nước CSVN.
- Ngày 17/3, cụ Lê Quang Liêm, 82 tuổi, Hội Trưởng Phật Giáo Hòa Hảo đã bị hơn 20 công an đồng phục và thường phục đã bắt giam tại Sài Gòn. Cùng lúc đó, công an An Giang đã bắt khoảng 30 chức sắc tại Thánh Ðịa Hòa Hảo, trong đó có ông Ðiền là Phó Hội Trưởng. Cụ Liêm đã từng khẳng định là nếu bị công an bắt cụ sẽ tuyệt thực cho đến khi được thả ra, hoặc cụ sẽ chết trong tù. Trước đồn công an Quận 1, đã có khoảng 100 người biểu tình đòi thả cụ Lê Quang Liêm. Trước đó, cụ Lê Quang Liêm đã ra Thông Bạch kêu gọi tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong và ngoài nước thực hiện tuần lễ Cầu Nguyện Cho Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam kể từ 14 đến 20/3/2001 và tuyên bố sẽ tổ chức Lễ kỷ niệm 54 năm Ðức Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh ám hại tại Ðốc Vàng Hạ vào ngày 19/3/2001 tại Thánh Ðịa Hòa Hảo, một ngày lễ bị nhà cầm quyền CSVN cấm tổ chức.
- Ngày 5/9, công an vây bắt những nhà Dân Chủ tại Hà Nội đứng ra xin thành lập “Hội Nhân Dân Việt Nam Ủng Hộ Ðảng và Nhà Nước Chống Tham Nhũng" do ông Hoàng Minh Chính, cựu Đại Tá Phạm Quế Dương và Giáo Sư Trần Khuê, Nguyễn Vũ Bình và Lê Chí Quang… xin thành lập ngày 2/9/2001.
- Ngày 1/10, ông Lê Chí Quang, Cử Nhân Luật, từng kêu gọi bỏ điều 4 hiến pháp, công bố bài “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”, nói về mộng bành trướng của Trung Quốc và vấn đề phân chia biên giới, bị đưa ra đấu tố nhiều lần trong tháng 10. Tháng 7/2002, tổ chức Human Rights Watch trao tặng Giải Hellman/Hammett. Ông bị bắt ngày 21/2/2002 và đưa ra tòa xử kín ngày 8/11/2002 với án 4 năm tù, được thả ra tháng 5/2004. Tháng 4/2004, được Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ trao Giải Quyền Tự Do Được Viết.
- Ngày 14/1/2002 Nhà Văn - Nhà Thơ Bùi Minh Quốc, Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Lâm Đồng tác giả những bài thơ phản kháng như "Mẹ Ðâu Ngờ", "Những Ngày Thường Ðã Cháy Lên", "Không Có Gì Quý Hơn Ðộc Lập Tự Do"... cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự thực hiện chuyến đi khắp bắc-nam để vận động Dân Chủ thu được 108 chữ ký và 5 Hội Nhà Văn, ra Hà Nội, vào tận Ban Bí Thư và một số Ban, Bộ ở Trung Uơng để đấu tranh và giao các kiến nghị, tuyên bố của các văn nghệ sĩ, trí thức và công chúng. Ông đã bị công an bắt và đưa về Đà Lạt quản chế vì ra vùng biên giới Việt-Trung kiểm chứng hiệp định ký ngày 29/12/1999 và viết bài chống đối nhà cần quyền.
- Ngày 27/3, Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn bị công an bắt vì viết bài "Những Tín Hiệu Đáng Mừng Cho Dân Chủ Tại VN" gửi tới ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư Đảng CSVN, tới các cơ quan thông tấn, báo chí và dịch bài "Thế Nào Là Dân Chủ" từ trang nhà Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Ông bị đưa ra xử kín ngày 18/6/2003 với án 13 năm về tội “gián điệp”, sau bị dư luận phản đối nên tái xử, rút xuống 5 năm tù và thả ra ngày 30/8/2006. Ngày 9/2/2207, công an đã triệu Bác Sĩ Sơn đi làm việc rồi lẻn vào nhà B ác Sĩ đặt máy nghe lén.
- Ngày 22/7, nhà báo Nguyễn Vũ Bình (với 10 năm làm tờ tạp chí Cộng Sản) vì đưa ra những đề nghị sửa đổi với đảng: "Tôi luôn tin rằng khi chúng ta có thể thành công trong việc chấm dứt và ngăn chận những vi phạm nhân quyền trên toàn quốc, chúng ta cũng đã thành công trong việc dân chủ hóa đất nước này. Bất kỳ một phương pháp đấu tranh cho nhân quyền nào, vì thế, cũng phải nhắm tới những mục đính tối thượng mà dân tộc Việt Nam hằng mong ước: tự do cá nhân và một xã hội dân chủ.", nên bị bắt và biệt giam 8 tháng. Sau khi ông đưa ra bài viết "Một Vài Suy Nghĩ Về Hiệp Định Biên Giới Việt-Trung", trong đó ông chỉ trích chính phủ đã làm thiệt hại hàng trăm kilomet vuông đất đai của Việt Nam, ông lại bị bắt vào ngày 25/9/2002. Ngày 31/12/2003, bị đưa ra xử kín với bản án 7 năm. Ông kháng án và tuyên bố: "Đối với tôi, tự do hay là chết.", rồi lập tức bắt đầu một cuộc tuyệt thực nên tòa án Tối Cao đồng ý xét lại vụ án. Hiện ông vẫn còn bị giam. Bà Bùi Thị Kim Ngân vợ ông, khi đi thăm ngày 4/3/2007 về cho hay thì tình trạng sức khỏe rất yếu, suy sụp, nằm bẹp (trong khi trại giam vẫn nói là ông bình thường). Theo chị: “Chế độ này lạc hậu, độc đoán hơn phong kiến.”.
- Ngày 9/8, cựu Trung Tướng CSVN Trần Độ qua đời tại Hà Nội, từng là chiến tướng, Phó Chủ Tịch Quốc Hội khoá 7, Ủy Viên Trung Ương Đảng khóa 3, 4, 5, 6 (1960-1991)… Năm 1981, khi làm Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương, ông chủ trương "cởi trói" cho văn nghệ với nhận thức rằng: "Văn hoá mà không có tự do là văn hoá chết. Văn hoá mà chỉ còn có văn hoá tuyên truyền cũng là văn hoá chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hoá bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hoá và những nhà văn hoá cao đẹp."… nên bị mất chức. Từ năm 1995, ông là một trong những nhân vật cao cấp nhất đã triệt để lên tiếng chống lại sự độc đoán và sai lầm của chế độ từ. Có khoảng 250 vòng hoa điếu từ khắp bắc nam gửi tới, thể hiện sự đồng cảm của dư luận. Khi bắt đầu lên tiếng đấu tranh Dân Chủ, ông bị trù dập, tước đảng tịch năm 1999 (khi đó 58 tuổi đảng) và bị chặn đường tịch thu Nhật Ký Rồng Rắn, ở trang 42 cuốn này có ghi: “Nói thì dân chủ, vì dân mà làm thì chuyên chính, phát-xít... Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt trẻ con phải đóng trò, bắt người già phải đóng trò... (Họ đã) hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả dối, giáo dục giả dối, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa dối, lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối...”. Ông cho rằng: “Chế độ cộng sản hiện nay tàn ác hơn Hitler và Tần Thủy Hoàng cộng lại.”.
- Ngày 28/12, 2 trong số 21 người thuộc nhóm đưa ra “Thư Lên Tiếng Tập Thể Của Những Cử Tri” ngày 2/8/2002 là Cựu Đại Tá Phạm Quế Dương (nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự, tự từ bỏ đảng, tin vào linh hồn và tuyên bố: “Đảng Công Sản bất tài, bất lực, bất lương.”) bị bắt sau khi vào Sài Gòn gặp Giáo Sư Trần Khuê vì lên tiếng phản đối nhà cầm quyền CSVN và đưa ra xử ngày 14/7/2004 cũng với án 19 tháng tù. Ngày 29/12, Giáo Sư Trần Khuê là người cũng lên tiếng về vấn đề biên giới Việt-Trung và đưa các bài viết chỉ trích nhà cầm quyền CSVN lên Liên Mạng, đã bị nhà cầm quyền bắt và xử ngày 9/7/2004 với án 19 tháng tù.
- Ngày 20/1/2005, Tổng Thống G. Bush trong diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2 đã nói: “Tất cả những ai sống trong chế độ độc tài tàn bạo và những ai sống trong vô vọng có thể biết là Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước những sự áp bức hoặc bào chữa cho kẻ áp bức. Khi quý vị đứng lên tranh đấu cho Tự Do của quý vị, chúng tôi sẽ đứng vào hàng ngũ của quý vị.”. Bà Ngoại Trưởng Condolleezza Rice sau đo lập lại tương tự. Hoa Kỳ còn đề nghị Liên Hiệp Quốc lập Quỹ Yểm Trợ Dân Chủ… Nhưng rồi chính ông Bush hoan hỷ đưa Việt Nam dưới sự cai trị của Cộng Sản ra khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm vì vi phạm Tự Do tôn giáo hay nhân quyền CPC (Country of Particular Concern). Và khi ông qua Việt Nam dự hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) thứ 14 tháng 11/2007, đã không nói gì tới vấn đề Dân Chủ hay những người đang bị áp bức tại Việt Nam, Hoà Thượng Thích Quảng Độ đã phải lên tiếng: “Mà bây giờ, thực tế diễn ra cho thấy ngược lại. Ông ấy đến Việt Nam, không đứng chung với chúng tôi. Ông ấy đứng chung với những người đàn áp chúng tôi.”.
- Tháng 4/2005, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, 77 tuổi, bị tù và quản chế nhiều lần từ năm 1977 (tới nay đã khoảng 25 năm) tại Thái Bình, Sài Gòn, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (người đã đưa ra lời kêu gọi nhà cầm quyền CSVN đối thoại để dân chủ hóa, tự do tôn giáo và hòa hợp hòa giải dân tộc) đã ra Thông Điệp lên án hiện tình áp bức tại Việt Nam gửi Ủy Hội Nhân Quyền Liên Hợp Quốc nhân khóa họp thứ 61 tại Genève.
- Ngày 21/4, nhân dịp Phật Đản 2549, Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang ra Thông Điệp và Hòa Thượng Thích Quảng Độ ra Đạo Từ, hai vị đã trình bày về tình hình Phật Giáo và Việt Nam.
- Ngày 19/5, ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng CSVN đầu tiên đã thực hiện chuyến thăm lịch sử tới Hoa Kỳ, đánh dấu một mốc mới trong quan hệ giữa hai quốc gia trên lĩnh vực kinh tế... Tại những nơi ông tới, người Việt đều biểu tình phản đối chế độ độc đoán hiện nay.
- Tháng 9/2005, bà Nguyễn Thương Cúc (Florida), ông Lê Văn Bình và Huỳnh Bích Liên (nam Cali) từ Hoa Kỳ về Việt Nam là 3 trong số 6 người bị công an bí mật bắt giam cả năm trời và ghép tội âm mưu chiếm làn song phát thanh tại Việt Nam, rồi mới đưa ra tòa ngày 17/10/2006, bị kết án 15 tháng tù. Bà Cúc đã về tới Hoa Kỳ ngày 18/11/2006.
- Ngày 29/9, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy viết ký sự về vụ tự thiêu oan nghiệt của bà Phạm Thị Trung Thu là người đang khiếu kiện vì bị cướp nhà đất tại Nhà Tiếp Dân, vườn hoa quận Ba Đình, Hà Nội. Sau đó bà Thủy đứng ra đấu tranh cho những dân oan kiếu kiện thấp cổ bé họng. Trước đó, tháng 1/1997, bà đã rời khỏi báo Văn Hóa - Văn Nghệ của ngành Công An. Ngày 2/9/2006, bà bị công an chận bắt và tra vấn cả tuần. Theo bà, dân Việt Nam khổ vô cùng, có những người đi kiện đã 27, 30 năm. Vì vậy những bài viết của bà tập trung vào dân oan... "Làm dân trong thời đại Cộng Sản nghĩa là khổ 3 họ, khó 3 đời, tả tơi suốt kiếp làm người Việt Nam...". “Chính đảng này đã từ lâu quay ngược lại với dân.”. Theo chị, chính những người trong hàng ngũ đảng và nhà nước cũng phải thốt lên câu là: "Chưa thời nào làm dân khổ như thời Cộng Sản và chưa thời nào làm quan lại sướng như thời Cộng Sản".
- Ngày 19/10, anh Trương Quốc Huy cùng cô Phạm Ly Sa bị bắt đã vì tham gia đấu tranh trên các diễn đàn Paltalk, cả hai bị giam 9 tháng mà không đưa ra tòa. Cô Phạm Ly Sa là người Việt từ Hoa Kỳ về thăm, tên trên Paltalk là Bell South, bị vu cho là “Gián điệp của CIA”.
- Ngày 8/12, Kỹ Sư Đỗ Nam Hải bị bắt giữ vì sao 11 cuốn “Hãy Trưng Cầu Dân Ý” của chính anh do nhà xuất bản Cành Nam ở Hoa Kỳ phát hành. Sau đó ngày 16/2/2006, có giấy đòi phạt 20 triệu đồng, nhưng ông nhất quyết không chấp hành. Ông tốt nghiệp ở Úc, về nước làm việc, trong thời gian 2000-2001 đã viết loạt bài: Việt Nam Đất Nước Tôi, Việt Nam Và Sự Đổi Mới, Suy Nghĩ Về Nhận Thức Lại, Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Viết Tiếp Về Nhận Thức Lại… Cuối năm 2004, ông đã phổ biến trên toàn thế giới lá thư yêu cầu nhà cầm quyền CSVN tổ chức Trưng Cầu Dân Ý về Thể Chế Đa Đảng cho Việt Nam, vì đấu tranh cho Dân Chủ nên ông bị nhà nước cắt việc.
- Tháng 12/2005 kéo dài qua năm 2006, rồi lại bùng lên vào đầu năm 2007, vụ “Nhân Công Vùng Lên 2005” với hàng loạt mấy chục vụ đình công bất bạo động của tổng cộng hàng trăm ngàn nhân công lao động nổ ra tại rất nhiều tỉnh ở miền Nam, Trung, Bắc, lớn nhất từ cả trăm năm qua, vì bị trả lương rẻ mạt và đối xử tồi tệ mà Công Đoàn do đảng CSVN thành lập đã không giúp gì còn tiếp tay giới chủ trấn áp họ. Cuộc biểu tình này làm dư luận nhớ lại vụ “Trung Kỳ Dân Biến 1908” dưới thời Pháp Thuộc. Ngày 28/2/2006, ông Nguyễn Tấn Hoành và 10 người đại diện công nhân đã ký thư: “Niềm Khóc Hận Thương Tâm” của tầng lớp công nhân lao động nhập cư nghèo từ các tỉnh về thành phố, đòi trả lương sứng đáng và hủy bỏ Công Đoàn do đảng lập ra... (sau đó hầu hết các người ký tên bị bắt giam).
Thủ Tướng CSVN Phan Văn Khải đã phải tức tốc ký nghị định tăng lương 40% và mở cuộc điều tra để cải thiện cuộc sống của người lao động. Từ đó ra đời một số tổ chức do chính người lao động lập ra để tự bảo vệ quyền lợi của mình.
- Tháng 12/2005, Phong Trào Dân Chủ Việt Nam trong và ngoài nước thực hiện trang nhà Diễn Đàn Tiếng Nói Dân Chủ, ngay sau đó bị phá nhưng vẫn kiên trì tiếp tục. Địa chỉ trang nhà:
http://www.ptdcvn.org/
- Năm 2005, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, tại Việt Nam đã viết bài "Sức Mạnh Quần Chúng Sẽ Quyết Định" trong đó có đưa ra Lộ Trình 9 Điểm. Ông là người đã được trao Giải Nhân Quyền Raoul Wallenberg năm 1994, Giải Nhân Quyền Robert Kennedy năm 1995, Giải Hellman/Hammett năm 2002, Giải Nhân Quyền Heinz R. Pagels năm 2004. Nhiều lần ông được cử làm ứng viên cho Giải Nobel Hòa Bình; gần đây nhất ông được Dân biểu Liên bang Hoa Kỳ Ed Royce cùng 7 Thượng Nghị Sĩ đề cử cho giải Nobel này cho năm 2004.
- Ngày 1/1/2006, đảng Vì Dân được thành lập, do ông Hồng Trung ở trong nước và Nguyễn Công Bằng ở hải ngoại làm đại diện, chủ trương thực hiện cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do.
- Ngày 19/3, Lời Kêu Gọi Cho Quyền Công Nhân (7 điểm) mang chữ ký của 22 vị tu sĩ và nhân sĩ, đại diện cho một số nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam, đã được phổ biến, nhằm hỗ trợ cho các cuộc đình công của công nhân.
- Ngày 8/4, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước đã đưa ra bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam 2006 qua Linh Mục Nguyễn Văn Lý (người từng bị bắt lần đầu tháng 9/1977, bị kết án 20 năm vì phổ biến 2 bài tham luận lên án Cộng Sản chủ trương tiêu diệt tôn giáo của Giám Mục Nguyễn Kim Điền, nhưng tháng 12/1977 đươc thả ra; lần thứ 2 tháng 5/1983, bị bắt và kết án 10 năm và tháng 7/1992 được thả ra; lần thứ 3 bị bắt tháng 5/2001, bị kết án 15 năm tù, nhưng tới năm 2005 được thả ra) đã tuyên bố: “Tự do tôn giáo hay là chết.”... chủ trương:
1- Bất bạo động.
2- Phủ nhận sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh.
3- Phủ nhận sự độc tôn đảng Cộng Sản Việt Nam.
Tuyên ngôn với 117 chữ ký sơ khởi, giữa tháng 6, số người minh danh ký tên đã lên 2.000 người ở trong nước và hơn 10.000 người ở ngoài nước (gọi tắt là Khối 8406).
Khối 8406 kêu gọi làm tất cả những gì luật pháp không cấm, như lập hội, lập đảng, tảy chay bầu cử quốc hội lần thứ 12 tháng 5/2007 và nêu cao khẩu hiệu:
Đừng sợ những gì Cộng Sản làm,
Hãy làm những gì Cộng Sản sợ.
(Trích từ bài thơ của Trường Giang)
- Ngày 15/4, Linh Mục Chân Tín, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Lý và Nhà Báo Nguyễn Khắc Toàn... đã không xin phép, tự ý phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận tại Việt Nam trên giấy cũng như trên Liên Mạng (Internet). Địa chỉ trang nhà:
http://tudongonluan.atspace.com/
http://www.tdngonluan.com/
http://www.tudodanchuvietnam.net/
- Ngày 15/4, Phong Trào Dân Chủ Việt Nam đưa ra Tuyên Ngôn Dân Chủ Việt Nam 2006 qua Giáo Sư Trần Khuê (chưa được triệt để vì còn muốn thay đổi đảng Cộng Sản Việt Nam) và Hoàng Minh Chính (Chủ Tịch)... được rộng rãi dư luận ủng hộ.
- Ngày 18-25/4, Đại Hội X đảng CSVN được tổ chức, vẫn chủ trương độc đảng (không chaâp nhận đa nguyen, đa đảng) và cho phép đảng viên tư do kinh doanh.
- Ngày 8/5, Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ do các anh Nguyễn Tiến Trung và Nguyễn Việt Quốc... ở Pháp khởi xướng, gồm những người ở trong và ngoài nước ra đờị Địa chỉ trang nhà:
http://www.thtndc.org/
Ngoài những thư ngỏ gửi các lãnh đạo nhà nước, Tập Hợp đã thực hiện chương trình "Marathon Nối Vòng Tay Lớn" từ ngày 23/6 đến 29/8 đồng thời tiến hành ở New York, San Jose (Hoa Kỳ), Rennes (Pháp), Melbourne (Úc) và cả ở Sài Gòn (?). Các tình nguyện viên sẽ thay phiên nhau di chuyển bằng mọi phương tiện đi lấy chữ ký nhằm vận động dân chủ hóa đất nước để gửi Tổng Thống George W. Bush... nhân dịp ông đến Việt Nam dự hội nghị APEC vào tháng 11/2006.
Nội dung thư kêu gọi:
1- Đòi tự do báo chí và xuất bản.
2- Đòi tự do lập hội và lập đảng.
3- Đòi tổng tuyển cử tự do, công bằng, có quốc tế giám sát.
4- Thả tất cả tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo.
- Ngày 9/5, là nhân Ngày Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 12, nên Quốc Hội Hoa Kỳ đã đặc biệt thông qua việc biến Lộ Đồ 9 Điểm này đã thành nghị quyết mang số HR807.
- Giáo Sư Phạm Văn Thành tại Hoa Kỳ đã viết bài "Tiến Trình Dân Chủ Hóa Việt Nam" ra trong đó có đưa ra Lộ Trình 6 Điểm.
- Ngày 23/5, Cựu Tổng Thống Václav Havel cùng Nhóm Hiến Chương 77 gồm 50 người của Tiệp Khắc và ngày 30/5, 50 Dân Biểu quốc hội Hoa Kỳ đã lên tiếng ủng hộ. Sau đó, nhiều Dân Biểu Úc, Gia Nã Đại và Âu Châu cũng đã lên tiếng ủng hộ.
- Ngày 1/6, ông Hoàng Minh Chính, đã phục hoạt đảng Dân Chủ Việt Nam thành Dân Chủ Việt Nam XXI. Đảng này đã thành lập ngày 30/6/1944, tham gia bầu cử đa đảng ngày 6/1/1946, ông Hoàng Minh Chính từng làm Tổng Thứ Ký năm 1956-59, bị đảng Cộng Sản Việt Nam giải tán năm 1988. Năm 1961, ông từng là Viện Trưởng Viện Triết Học Mác-Lê. Năm 1967, bị khai trừ khỏi đảng CSVN, năm 1967-1973, bị đưa đi “cải tạo”, năm 1995-1996 bị tù. Năm 2005, sau chuyến đi Hoa Kỳ chữa bệnh, nhân đó công khai phê phán nhà cầm quyền và kêu gọi đấu tranh. Ngày 29/9/2005, ông ra điều trần trước Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ nêu ra " những vụ đàn áp tôn giáo, khủng bố tàn bạo" ở Việt Nam... Cuối năm 2005, khi trở về nước, ông bị nhà cầm quyền trù dập, công an cho du đãng đến nhà quậy phá. Ông đứng ra vận động lấy chữ ký đòi hủy bỏ điều 4 của Hiến Pháp Việt Nam.
- Ngày 2/6, ông Trần Khuê, Kỹ Sư Bạch Ngọc Dương đã bị công an Hà Nội bắt giữ. Nyày 3/6, Nhà Báo Nguyễn Khắc Toàn cũng bị công an bao vây và ngăn chặn không cho ra khỏi phường cư trú, cắt điện thoại, cô lập anh.
- Ngày 20/6, Khối 8406 đã đưa ra 10 điều kiện cơ bản thiết yếu để cuộc bầu cử quôc hội 2007 đa đảng, tự do dân chủ thực sự, khỏi bị toàn dân đồng loạt tẩy chay.
- Ngày 6/7, Nghị Viện Âu Châu đồng thanh thông qua một Quyết Nghị về Quyền Tự do Phát Biểu Trên Internet, cực lực lên án gắt gao một số nhà nước vi phạm nghiêm trọng Quyền Tự Do này. Bản Quyết Nghị nghiêm khắc chỉ trích sự tiếp tay, đồng lõa vì tham lợi của Yahoo, Google, Microsoft và Cisco Systems ở Bắc Mỹ và France Telecom cùng Telecom Italia ở Châu Âu, đã cung cấp phương tiện, thiết bị kỹ thuật để kiểm duyệt, canh chừng và phong tỏa nguồn tin liên mạng cho một số chế độ độc tài như Trung Quốc, Miến Điện, Cuba, Ba Tư, Libye, Maldives, Népal, Bắc Hàn… và Việt Nam.
- Ngày 22/7, lập Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam Hải Ngoại (Vietnamese Federation Labor In Oversea = VFL-IOS) tại Little Saigon, Cali, Hoa Kỳ, ban lãnh đạo gồm Chủ Tịch: Dương Đại Hải, Tổng Thư Ký: Trần Đắc Phú, Tông Tin - Báo Chí: Nguyên Hà và Thủ Quỹ: Trần Thị Mộng Đàọ Tổng Liên Đoàn đước sự hổ trợ của Tổng Liên Đoàn Lao Công Hoa Kỳ (American Federation Labor Center International Organization = AFL-CIO) và đã họp đại hội kỳ 1 ngày 29/10 với sự tham dự của khoảng 500 người.
- Ngày 14/8, ông Đỗ Thành Công thuộc đảng Dân Chủ Nhân Dân từ San Jose, Hoa Kỳ về Việt Nam bị công an bắt tại nhà ở Phan Thiết, biệt giam 10 ngày… và cáo buộc tội khủng bố, định đặt bom phá Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn, cùng với 2 người tại Việt Nam là Lê Nguyên Sang và Huỳnh Nguyên Đạo. Ông Công đã tuyệt thực từ ngày 1/9 đến khi được trở về để phản đối, trong khi đó nhưng phát ngôn nhân Toà Đại Sứ Hoa Kỳ là ông Louis Lantner cho hay không có bằng chứng nào về chuyện này. Trước áp lực của chính phủ Hoa Kỳ, dư luận và vợ ông là bà Đỗ Bùi Tiên, ông đã được thả ra và về lại Hoa Kỳ ngày 21/9.
- Ngày 22/8, Khối 8406 đã đưa ra Tiến Trình Dân Chủ Hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn với 8 bước.
- Ngày 2/9, tập san Tự Do Dân Chủ ra đời trên mạng với nhóm Nhà Văn Hoàng Tiến, Nhà Báo Nguyễn Khắc Toàn, Giáo Viên Dương Thị Xuân và Luật Sư Phạm Xuân Đài.
- Ngày 7/9, Nhóm Thanh Niên Dân Chủ Sơn Hà được thành lập ở Hà Nội với Vương Quốc Hoài, Đỗ Văn Tài và Nguyễn Đỗ Huy.
- Ngày 8/9, đảng Thăng Tiến Việt Nam được thành lập với bốn người đại diện là Nguyễn Phong, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Bình Thành và Hoàng Thị Anh Đào.
- Ngày 15/9, tập san Tổ Quốc của một nhóm các nhà đấu tranh Dân Chủ ra đời với Hội Đồng Cố Vấn gồm các ông như Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, Nguyễn Hộ, Nguyễn Gia Kiểng... và Ban Biên Tập là các ông Nguyễn Phương Anh, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Chính Kết, Vũ Cao Quận, Trương Nhân Tuấn...
- Ngày 16/10, thành lập Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam (Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Đấu Tranh Vì Tự Do, Dân Chủ Và Nhân Quyền Cho Việt Nam). Ngày 10/12/2006, Liên Minh đã tổ chức cuộc hội thảo kết hợp khoảng 10 diễn đàn Paltalk và Yahoo, với sự tham dự của mấy chục nhà tranh đấu Dân Chủ trong và ngoài nước, hàng ngàn người tham dự và sau đó được phổ biến rộgn rãi trên các đài phát thanh Việt Nam và quốc tế. Ông Nguyễn Thanh Văn, Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hợp Đấu Tranh tại Cộng Hoà Liên bang Đức đã đưa ra sang kiến mở chiến dịch “Khóa Cổng Độc Tài - Mở Đường Dân Chủ” bằng cách thực hiện những hình ảnh khóa chặt cỏng các toả đâi sừ CSVN trên thế giới.
- Ngày 20/10, thành lập Công Đoàn Độc Lập tại Việt Nam, do ông Nguyễn Khắc Toàn làm đại diện.
- Ngày 28-30/10, 16 người Việt từ Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Nga, Gia Nã Đại cùng khoảng 40 người Việt ở Ba Lan đã dự Hội Nghị Về Tự Do Dân Chủ tại thủ đô Ba Lan và thăm Công Đoàn Đoàn Kết của nước này để vận động cho Tự Do, Dân Chủ Việt Nam. Dịp này, ngày 30/10, những người tham dự và một số người trong nước đã lập ra Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam, với Chủ Tịch là ông Trần Ngọc Thành ở Ba Lan, Phó Chủ Tịch Nguyễn Thanh Trang và Nguyễn Ngọc Bích, Tổng Thư Ký Đoàn Viết Trung, Thủ Qũy Ngô Chí Thiềng....
- Ngày 30/10, Hiệp Hội Đoàn Kết Công-Nông Việt Nam được thành lập, đại diện là Nguyển Tấn Hoành, Nguyễn Thị Lê Hồng, Nguyễn Thị Tuyết và Hoàng Huy Chương (qua giữa tháng 11, ông Chương rồi ông Hoành và bà Hồng đã bị bắt).
- Ngày 2/11, Luật Sư Bùi Kim Thành, Đại Biểu Quốc Hội khóa 10, 11, người từng bênh vực nhiều vụ dân oan nên bị bắt tù oan từ 23/6/1995 đến 31/7/1995, bị cắt lương, lấy đất, đã bị công an Quận 3 Sài Gòn bắt cóc và đưa vào bệnh viện tâm thần Biên Hoà, khoa B4, nên ngày 4/1/2007 bà đã viết thư tố cáo chuyện này.
- Ngày 4/11, Hòa Thượng Thích Quảng Độ được trao giải Thoroff Rafto Nhân Quyên lần thứ 20 tại Na Uy (Ông Võ Văn Ái thuộc Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo đã thay mặt nhận lãnh). Nhiều nhân vật lãnh giải này sau đó đã được trao giải Nobel Hoà Bình như bà Aung San Suu Kyi (Miến Điện), ông Josè Manuel Ramos Horta (Đông Timor), ông Kim Đại Trọng (Hàn Quốc), bà Shirin Ebadi (Iran = Ba Tư). Hòa Thượng Thích Quảng Độ đang được 54 Dân Biểu Quốc Hội Ý… tiến cử lãnh giải Nobel Hòa Bình.
- Ngày 14/11, nhân hội nghị APEC lần thứ 14 quy tụ 21 quốc gia tổ chức tại Hà Nội, 28 nhà đấu tranh dân chủ trong nước như Nguyễn Đan Quế, Lê Quang Liêm, Nguyễn Văn Lý, Phạm Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, Nguyễn Hồng Quang, Phạm Hồng Sơn, Trần Khuê, Phạm Quế Dương, Trần Anh Kim, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Văn Đài (37 tuổi, mở tổ hợp văn phòng luật Thiên Ân bênh vực người dân bị áp chế), Lê Thị Công Nhân (27 tuổi), Trần Khải Thanh Thủy... đã đăng "Lời Kêu Gọi Dân Chủ" gửi Tổng Thống George W. Bush trên nguyên một trang báo Washington Post và USA Today ấn bản Á Châu ngày 17/11, là những tờ báo chính trị hàng đầu của Hoa Kỳ. Việc đăng tải này tốn khoảng 40.000 Mỹ Kim, đã được sự hỗ trợ hoàn toàn về tài chính của đồng hương ở hải ngoại do nhà báo Huỳnh Lương Thiên... chủ xướng.
Trong thời gian hội nghị, nhà cầm quyền đã gia tăng đàn áp và các nhà đấu tranh trong nước đã bị cô lập triệt để. Trước đó, ngày 7/11, Việt Nam đã được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO = World Trade Organization) và sau đó, ngày 9/12/2006, đã được hưởng Quy Chế Bang Giao Bình Thường Vĩnh Viễn (PNTR = Permanent Normal Trade Relations) với Hoa Kỳ.
- Ngày 19/11, thành lập Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo (VPRPFA = Vietnamese Political And Religious Prisoner Friendship Association) ở quốc nội, có sự tham dự của nhiều nhân vật ở hải ngoại, do Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm đại diện. Ngày 20/1/2007, ra mắt Ban Chấp Hành Hải Ngoại tại Milpitas, Cali, Hoa Kỳ.
- Ngày 26/11, Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Dân Chủ Tại Việt Nam có 7 tiểu ban được thành lập tại Cali, Hoa Kỳ, đại diện gồm Giáo Sư Nguyễn Văn Canh, Luật Sư Đinh Thạch Bích, và các ông Nguyễn Ngọc Liên, Lê Công Nghiệp... đã được khoảng 300 người ký tên ủng hô..
- Từ 1/12, Khối 8406 trong Kháng Thư số 8 đã mở "Chiến Dịch Áo Trắng", kêu gọi toàn dân bắt đầu thực hiện "Ngày Dân Chủ Cho Việt Nam" bằng cách mặc y phục trắng vào ngày 1 và 15 mỗi tháng như một cách biểu lộ ý chí ủng hộ hay tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ.
- Ngày 9/12, Hội Dân Oan Việt Nam được thành lập ở Việt Nam với 61 Tỉnh Hội, danh sách ban đầu quy tụ gần 400 người do nhóm nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Nguyễn Hải ở Hoa Kỳ và Trúc Lê ở Úc... khởi xướng, Ban Điều Hành gồm Trần Anh Kim, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Nghiệp, Trần Thị Bình và Võ Văn Ngà...
- Ngày 10/12, nhân ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền lần thứ 58, Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam (The Committee For Human Rights In Viet Nam) được thành lập ở Hà Nội, do các ông Bùi Minh Thanh và Nguyễn Công Lý làm đại diện đã ra văn thư đầu tiên, tố giác tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại Việt Nam.
- Ngày 20/12, Giáo Sư Nguyễn Chính Kết, nhân vật thứ hai của Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền VN, theo lời mời của Mạng Lưới Nhân Quyền tại hải ngoại và trong trách vụ nối kết trong-ngoài, đã từ Việt Nam qua Cam Bốt rồi tới Hoa Kỳ, mở nhiều cuộc họp báo, nói chuyện cho tới ngày 2/3/2007. Sau đó ông đi Âu Châu và dự trù đi Úc rồi về Việt Nam.
- Ngày 25/12, lần đầu tiên một lãnh tụ là ThủTướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng hội đàm Đức Giáo Hoàng Benedict tại Vatican và ngày 9/2/2007, lần đầu tiên ông đã có buổi trả lời gọi là “trực tuyến” đối với hơn 30 trên hơn 20.000 câu hỏi của người Việt trong và ngoài nước qua trang nhà (website) chính phủ và truyền hình.
- Ngày 1/1/2007, nhân ngày đầu năm, 16 người Đại Diện Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền VN và Khối 8406 viếng thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa như Linh Mục Chân Tín, Truyền Đạo Tuấn Anh, Mục Sư Phạm Hồng Quang, Mục Sư Nguyễn Công Chính, Mục Sư Phạm Ngọc Thạch, vợ chồng Mục Sư Ngô Hoài Nở… thì công an ập đến bắt cóc Kỹ Sư Đỗ Nam Hải, Lê Trí Tuệ và Trần Quốc Hiền.
- Ngày 11/1, tại trụ sở của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) ở Geneva, Việt Nam chính thức được công nhận là thành viên thứ 150 của WTO. Từ nay, nhà cầm quyền CSVN phải thực hiện quyền và nghĩa vụ trong vai trò thành viên và thực hiện các cam kết với WTO.
- Ngày 20/1/2007, lễ ra mắt Ủy Ban Điều Hành Hải Ngoại cùng Thành Viên Hội Đồng Cố Vấn Giám Sát Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, nhân dịp nầy Ban Tổ chức sẽ giới thiệu Ra Mắt cuốn "Hồi Ký 26 Năm Tù Của Thích Thiện Minh" (nửa kiếp tu, nửa kiếp tù).
- Ngày 1/2, Nhóm Người Việt Nam Yêu Nước thành lập tại Hà Nội, sơ khởi khoảng 30 người, phát ngôn viên là ông Nguyễn Trung Lĩnh, với chủ trương tiến tới thành lập một đảng chính trị để cạnh tranh với Cộng Sản Việt Nam.
- Ngày 6/2, Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) tại Hoa Kỳ đã trao giải Hellman/Hammett cho 8 người Việt là Nguyễn Vũ Bình, Đỗ Nam Hài, Nguyễn Chính Kết, Trần Khải Thanh Thủy, Nguyễn Văn Đài, Lê Chí Quang, Phạm Quế Dương và Nguyễn Khắc Toàn, trong số 45 người thuộc 22 quốc gia.
- Ngày 11/2, Kỹ Sư Phạm Bạch Dương, tác giả nhiều bài báo đòi Dân Chủ, bị “mật vụ” tấn công sau khi gặp Nhà Báo Nguyễn Khắc Toàn, Luật Sư Lê Thị Công Nhân và từ nhà Lê Thị Công Nhận ra về.
- Ngày 16/2, tức Giao Thừa năm Đinh Hợi, ông Nguyễn Phong đại diện đảng Thăng Tiến bị bắt lần thứ hai đồng thời với Nguyễn Bình Thành là sáng lập viên đảng Thăng Tiến và thành viên Khối 8406. Qua ngày 19/2, ông Nguyễn Phong bị cưỡng bách đọc bản cam kết viết sẵn gửi công an Thừa Thiên, Huế, tự giải tán đảng Thăng Tiến và Liên Đảng Lạc Hồng, quay về đời sống bình thường. Sau đó, ngày 17/3, ông Nguyễn Phong nhân danh Trưởng Ban Đại Diện Thành Lập ra Tuyên Bố của Đảng Thăng Tiến cho hay những lời khai của ông trong thời gian từ 16/2 đến 17/3/2007 không có giá trị pháp lý vì ông bị ép cung, trong tình trạng mệt mỏi, mất bình tĩnh và sợ hãi. Tuyên Bố đã lên án hành vi khủng bố của nhà cầm quyền và khẳng định đảng Thăng Tiến tiếp tục công khai hoạt động…
- Ngày 17/2 (Mùng 1 Tết Đinh Hợi), Liên Đảng Lạc Hồng là liên kết của đảng Thăng Tiến và đảng Vì Dân giữa hai đại diện là ông Mguyễn Phong và Hồng Trung dự trù chính thức ra mắt (đã ký kết từ ngày 20/1/2007), chủ trương đấu tranh ôn hòa và kêu gọi cán bộ Cộng Sản quay về hợp tác xây dựng một nước Việt Nam thực sự Dân Chủ.
- Trong Thông Điệp Xuân Đinh Hợi 2007, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã viết: “Bằng đức tính Vô Úy - không sợ hãi- mà thực hiện tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội, nhất tâm chận đứng mọi âm mưu biến tướng phân hóa, hãm hại Giáo Hội, hoàn thành chí nguyện phục vụ dân tộc và nhân loại.”.
- Ngày 18/2, tức ngay ngày mùng 2 Tết Đinh Hợi, Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị bao vây, tịch thu máy điện toán và điện thoại, cô lập ở Tòa Tổng Giám Mục Huế. Linh Mục đã tuyệt thực để phản đối những sự đàn áp. Linh Mục Nguyễn Văn Lợi đang bị quản chế ở Huế cũng bị công an phong tỏa. Đồng thời ông Hồng Trung thuộc đảng Vì Dân, và cô Hoàng Thị Anh Đào, Lê Thị Lệ Hằng cũng bị bắt.
- Ngày 20/2, Thiền Sư Nhất Hạnh từ Pháp cùng với khoảng 200 tăng ni và tín đồ Việt Nam cũng như ngoại quốc về nước lần thứ hai để lập “Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng Giải Oan” (nhà nước không muốn dùng chữ “Giải Oan”) như một phương pháp “trị liệu tâm lý” để “hoà hợp dân tộc để thống nhất lòng người” tại 3 nơi: ngày 16-18/3 tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn (Nam), ngày 2-4/4 tại chùa Diệu Đế ở Huế (Trung) (trong buổi pháp thoại ngày 4/4, ông đã đọc lá thư gửi Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng ngày 2/4, trong đó đề nghị lập Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại Vũng Tàu…), và ngày 20-22/4 tại Hội Viện Phật Giáo Việt Nam ở Hà Nội (Bắc). Mỗi nơi tổ chức trai đàn đều có nhiều ngàn người tham dự và phái đoàn ở lại Việt Nam cho tới 9/5, giữa những dư luận ủng hộ và phản đối. Ông đã về lần thứ nhất trong thời gian 12/1 - 11/4/2006 cùng với khoảng 190 tăng ni và tín đồ Việt Nam cũng như ngoại quốc.
- Ngày 22/2, ông Hồng Trung đại diện đảng Vì Dân (thuộc Liên Đảng Lạc Hồng), sau nhiều lần bị đàn áp và bị bắt, đã lại bị công an bắt đi từ nhà riêng tại Gia Lai. Chi Lê Thị Nhung (vợ anh Hồng Trung) đang bị bệnh và có con nhỏ, tuyên bố hãnh diện về hoạt động của chồng, ngay cả anh ấy bị xử bắn cũng không hối tiếc.
- Ngày 24/2, Luật Sư kiêm Phát Ngôn Nhân của đảng Thăng Tiến là Lê Thị Công Nhân tại Hà Nội ra văn thư nói rõ là thông cảm với hoàn cảnh bị áp bức của Nguyễn Phong, nhưng ông không có tư cách để giải tán đảng Thăng Tiến và Liên Đảng Lạc Hồng nên điều này vô giá trị, khẳng định hai tổ chức này vẫn hoạt động như thường. Cùng ngày, ông Nguyễn Công Bằng ở hải ngoại cũng đã lên tiếng khẳng định đảng Vì Dân và Liên Đảng Lạc Hồng tiếp tục hoạt động.
- Ngày 24/2, nhà cầm quyền đã cưỡng bức áp tải, đưa Linh Mục Nguyễn Văn Lý đến nơi quản lý mới là Bến Củi, quận Phong Điền cách Huế khoảng 22 km, và ngày 25/2 quyết định truy tố ông về tội “Tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCNVN” theo điều số 88 Bộ Luật Hình Sự. Khi bị công an áp bức, Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã noí: “Cám ơn các anh công an, chính hành động của các anh giúp cho chế độ sớm xụp đổ.”. Ngày 1/3, Linh Mục đã nói với công an và nhân viên kiểm sát nhà nước: “Chính tòa án này, việc kiểm sát này, sở công an này, chế độ CS này phải chịu cái tội trước lịch sử, trước nhân dân VN, là thay vì tạo nên một dân tộc sĩ khí anh hùng, thì đã dùng mọi thủ đoạn đê hèn như lừa gạt và bạo lực để tạo nên một dân tộc hèn nhát và sợ hãi, rồi cho đó là thắng lợi, thành công.”. Linh Mục tiếp tục tuyệt thực cho tới ngày 5/3 khi hoàn toàn kiệt sức và phát bịnh phổi. Ngày 15/3, Linh Mục lại tuyệt thực cho đến ngày ra tòa để phản đối.
- Ngày 26/2, Lê Thị Công Nhân, 28 tuổi, Luật Sư kiêm Phát Ngôn Nhân của đảng Thăng Tiến trước khi bị cưỡng bách triệu lên công an đã khẳng định trên diễn đàn Paltalk là không thỏa hiệp và không đầu hàng: “Tôi sẵn sàng tới nhiệm sở mới bất đắc dĩ là nhà tù, và đó vẫn chưa phải là điều tồi tệ nhất mà tôi sẵn sàng đón nhận.”. Theo cô: “Đảng Cộng Sản đã hết sức thành công trong việc làm cho dân tộc Việt Nam sống chìm trong nỗi sợ hãi hàng chục năm trời. … và muốn dìm đất nước VN trong tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa, kéo dài cho tới trọn đời con cháu chúng ta.”.
- Ngày 24/2, ông Phạm Văn Điệp, đảng viên đảng Dân Chủ XXI, thường lên Paltalk nói nước đôi về tình hình VN, từ Nga về Việt Nam, sau khi ghé thăm ông Hoàng Minh Chính thì bị công an áp giải đi điều tra và tịch thu sổ thông hành (hộ chiếu) và điện thoại cầm tay. Ngày 10/3, ông đã công bố thư kiếu nại gửi Bộ Trưởng Bộ Công An vì vợ ông bị bướu não nặng mấy lần bất tỉnh mà ông không về được. Trong thư có đoạn: “Cộng Sản không thể sửa đổi mà đã được thay thế ở Việt Nam kể từ Đại Hội Đảng 10, là đảng viên được làm giàu, là doanh nhân, là ông chủ, là tư sản, là phát triển tư bản. Chính giới lãnh đạo đã xóa bỏ Công Sản từ trước. Tôi chỉ nói ra sự thật.”.
- Trong tháng 1-2/2007, sau khi được ra khỏi danh sách CPC, gia nhập WTO và tổ chức APEC, nhà cầm quyền CSVN đã mở chiến dịch đàn áp tôn giáo và các nhà đấu tranh Dân Chủ, liên tục bức bách các tôn giáo, như Chủ Tịch Xã đã phá tượng Đức Mẹ Sầu Bi (PIETA) ngày 30/1 tại Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình (sau đó, qua đầu tháng 3, có tin những cán bộ và công an liên hệ đã bị cách chức); đấu tố Luật Sư Nguyễn Văn Đài, đấu tố Thượng Tọa Thích Thiện Minh (người đã bị bắt giam 26 năm) ngày 30/1 tại Bạc Liêu rồi bị hàng trăm công an và nhân viên nhà nước đến phá tịnh thất vào ngày 15/3, khoảng 30 công an đến xét nhà và máy điện toán ngày 16/3; sau nhiều lần sách nhiễu công an đã cấm Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Thừa Thiên do Hoà Thương Thích thiện Hạnh lãnh đạo hoạt động ngày 7/3/2007 nhưng Hòa Thượng bác bỏ; phá phách chùa Ba La Mật do Hoà Thượng Thích Nhật Ban (đã 2 lần bị bắt giam và ra tù năm 1989 và 1998) trụ trì tại Đồng Nai; Đại Đức Thích Mẫn Thiện bị sách nhiễu tại Hải Phòng; phá các cơ sở Tin Lành của Mục Sư Nguyễn Công Chính tại Gia Lai, Mục Sư Nguyễn Hồng Quang tại Sài Gòn và áp bức nhiều nhân vật đấu tranh dân chủ, tôn giáo khác…
- Từ cuối tháng 2/2007…, ngay sau khi có tin Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị bắt đưa đi nơi quản chế mới, hàng loạt cuộc biểu tình của người Việt ở hải ngoại chống sự đàn áp của nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã diễn ra khắp nơi trên thế giới cũng như vận động ngoại giao thế giới yểm trợ và can thiệp. Song song đó, nhiều tổ chức, cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã tham gia chiến dịch liên tục gọi điện thoại chất vấn, đồng thời đó là cách bao vây, cô lập các cơ quan nhà nước CSVN ở trong và ngoài nước. Trong khi đó các cơ quan truyền thông trong nước đồng loạt lên án các nhà hoạt động Dân Chủ bị bắt.
- Ngày 28/2/2007, Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn Bị Cầm Tù trong một Kháng Nghị Thư lên tiếng phản đối việc chế độ Hà Nội đàn áp ba Linh Mục chủ biên bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận là Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi và Chân Tín.
- Ngày 3/3, Linh Mục Nguyễn Văn Lợi dù đang bị quản chế, đã nói chuyện trên diễn đàn Paltalk: “Chúng tôi nhất định không lùi bước, họ càng đàn áp thì chúng tôi càng quyết tâm hơn. Chúng tôi chấp nhận con đường gian khổ, chấp nhận tù tội, chấp nhận đòn thù và đó là giá chúng tôi phải trả để sống với lương tâm mình. Cộng Sản càng tàn bạo chừng nào, ngày tàn của Cộng Sản càng sớm chừng đó.”. Ngày 7/3, khi trả lời đài Quê Hương ở San Jose, Hoa Kỳ, Linh Mục đã nói: “Không bao giờ đi lùi, cho dù trước mắt là cái chết.” và kêu gọi các vị mục tử có thẩm quyền bên trên như Hồng Y hay Giám Mục hãy mạnh dạn nói lên tiếng nói công đạo.
- Ngày 5/3, 8 công an đến xét nhà Giáo Sư Nguyễn Chính Kết (trong lúc ông đã xuất ngoại qua Hoa Kỳ 20/12/2006 và lúc này đang ở Na Uy) và đe dọa nếu bắt được sẽ tạm giam 4 tháng. Ngày 6/3, Giáo Sư Nguyễn Chính Kết, đại diện Liên Minh Dân Chủ - Nhân Quyền VN đến Na Uy, tường trình trước Hội Rafto. Sau đó Giáo Sư đi Bỉ, Pháp…
- Ngày 6/3, bà Trần Thị Lệ, mẹ của Luật Sư Lê Thị Công Nhân cho hay, Lê Thị Công Nhân đã bị 15 công an xông vào nhà bắt giữ, xét nhà và văn phòng lúc 10 giờ sáng. Ngay sau đó, bà Vũ Minh Khánh, vợ Luật Sư Nguyễn Văn Đài cho hay Nguyễn Văn Đài bị bắt ở ngoài đường rồi đưa về xét nhà, văn phòng lúc 12 giờ, ông đã viết chữ “Phản đối” và ký tên vào giấy ra lệnh bắt. Họ được cho biết bị tạm giam 4 tháng căn cứ trên điều số 88 Bộ Luật Hình Sự nên cả hai người đã tuyên bố tuyệt thực để phản đối. Cả hai thân nhân của hai người bị bắt khi lên tiếng với các đài phát thanh và diễn đàn Paltalk vẫn tỏ thái độ rất vững vàng. Ngày 12/3, công an Hà Nội ra lệnh thu hồi giấp phép hoạt động của hai Luật Sư và khai trừ khỏi Luật Sư Đoàn Hà Nội.
- Ngày 6/3, Ngoại Trưởng Condolezza Rice phổ biến bản phúc trình Nhân Quyền Thế Giới 2006, nói rằng văn kiện này sẽ là một nguồn khích lệ cho những người đấu tranh cho hòa bình, dân chủ trên toàn cầu. Trong có phần nói về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam: "Nước CHXHCN Việt Nam là quốc gia độc tài dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.". "Thành tích nhân quyền của chính phủ Việt Nam vẫn chưa đạt yêu cầu.". Và cho rằng đã có thay đổi nhưng vẫn phải cải thiện hợp lý hơn và sẽ đặt vấn đề đàn áp mới đây với các nhà lãnh đạo Việt Nam. Phía nhà cầm quyền Việt Nam qua nhật báo Nhân Dân đã lập tức lên tiếng cho rằng đó là bản báo cáo thiếu khách quan, thậm chí là sai lệch.
- Ngày 6/3, tại Đồng Nai lại bắt đầu đã xảy ra cuộc đình công của công nhân tại công ty Mabuchi (Nhật Bản)… Riêng ngày 12/3, có 5 cuộc đình công tại Harada, Mitani (Nhật Bản), All Super (Đài Loan), Asia Garments, Peaktof (Singapore). Như vậy, tính từ cuối tháng 1/2007 đến 12/3 đã có 16 cuộc đình công của khoảng 20.000 công nhân với mục đích đòi tăng lương, giảm giờ làm và giải quyết các chế độ làm việc cho hợp lý.
- Ngày 6/3, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Michael Marine đã yêu cầu gặp đại diện Bộ Công An, nhưng rồi ông đã cử Phó Đại Sứ đi thay. Phía nhà cầm quyền CSVN, qua Thứ Trưởng Công An Nguyễn Văn Hưởng cho rằng Hoa Kỳ can thiệp quá xâu vào nội tình VN. Còn ông Marine thì đi thẳng đến Sóc Trăng để tìm hiểu việc đàn áp những sư sãi người Khmer.
- Ngày 7/3, Đức Ông Pietro Parolin, Thứ Trưởng Ngoại Giao, Trưởng Đoàn đại diện Tòa Thánh Vatican đang viếng thăm Việt Nam, đã nêu vấn đề Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị đàn áp với nhà cầm quyền Việt Nam.
- Ngày 8/3, Mục Sư Nguyễn Công Chính đã bị công an đến xét nhà tại Gia Lai đánh và bắt đi mà không có án lệnh nào (từng bị cô lập 17 năm qua, ngày 11/11/2006 ông Chính đã bị công an áp tải đưa về trụ sở tại phường Hộ Phú, Gia Lai và bu lại đánh gẫy răng, dập lưỡi, máu me đầy mặt). Vợ và con Mục Sư đều bị lôi ra khỏi nhà và đánh đập dã man.
- Ngày 10/3, nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy bị 30 công an đến xét nhà và tịch thu 2 máy điện toán… Theo bà, đó là công an của “tà quyền chứ không phải chính quyền” đến quấy nhiễu.
- Ngày 11/3, cùng ngày có 3 cuộc biểu tình tại Wa DC, Little Saigon (Nam Cali) ở Hoa Kỳ và Ottawa ở Gia Nã Đại, lên án nhà cầm quyền CSVN và ủng hộ các nhà đấu tranh Dân Chủ đang bị đàn áp trong nước. Tuần trước đó đã có những cuộc biểu tình ở San Francisco, San Jose, Little Saigon, Houston, tại Úc, Đức, Pháp, Nhật... Ngày Công Lý Cho Nạn Nhân Cộng Sản được 70 nghệ sĩ hưởng ứng ngày 10/3/2007. Kế tiếp ngày 13/3 tại Bỉ, 18/3 tại Hòa/Hà Lan và tuần sau đó là các cuộc biểu tình ở Florida…
- Ngày 12/10, Luật Sư Lê Quốc Quân vừa hoàn tất khoá tu nghiệp về Dân Chủ tại National Endowment For Democracy ở Wa DC đã bị công an bắt giam tại quê của ông ở Nghệ An, chưa đầy 1 tuần lễ sau khi ông từ Hoa Kỳ trở về.
- Trong tháng 3, Bộ Ngoại Hoa Kỳ đã nêu vấn đề đàn áp các nhà đấu tranh Dân Chủ. Ngày 5/3, đại diện của 33 quốc gia (27 thành viên trong khối Liên Hiệp Châu Âu cùng một số nước khác, trong đó có Hoa Kỳ và Úc) đã chính thức lên tiếng với Bộ Ngoại Giao Việt Nam, bày tỏ quan ngại về việc giới chức Việt Nam gần đây đã bắt giữ hàng loạt các nhà bất đồng chính kiến.Các vị đại sứ Đức, Bulgaria và đại diện Ủy Hội Châu Âu cùng một số toà đại sứ khác đã chuyển lời phản đối chính thức các vụ bắt bớ trên. Ngày 10/3, ông Göran Lindblad và phái đoàn Dân Biểu Thụy Điển đang viếng thăm Việt Nam đã đặt vấn đề với Phó Thủ Tướng CSVN Phạm Gia Khiêm và bí mật gặp thân nhân Luật Sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân… và danh sách những nhà đấu tranh đang bị cầm tù như Nguyễn Vũ Bình do Hội Đồng Âu Châu đưa ra. Ngày 11/3, Thứ Trưởng Ngoại Giao Na Uy Raymond Johansen cũng đã chính thức phản đối việc giam cầm Linh Mục Lý… và từ chối cấp chiếu khán nhập cảnh cho Chủ Tịch Hiệp Hội Rafto.
Human Rights Watch đã đặc biệt lên án vụ bắt giữ Linh mục Nguyễn Văn Lý ở Huế hồi trung tuần tháng 2, Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Luật Sư Lê Thị Công Nhân ở Hà Nội hồi đầu tháng 3. Theo tổ chức này, nhà cầm quyền CSVN đã mở chiến dịch đàn áp thô bạo nhất từ 20 năm qua.
Dân Biểu Chris Smith đưa ra Hạ Viện nghị quyết đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam tôn trọng dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo cho nhân dân Việt Nam trả tự do tức khắc, vô điều kiện cho LM Nguyễn Văn Lý, LS Lê Thị Công Nhân, LS Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình và tất cả các tù nhân lương tâm khác tại Việt Nam.
- Ngày 13/3, ông Trần Văn Hòa, cư ngụ tại Quảng Ninh, đảng viên đảng Dân Chủ Nhân Dân đã bị 12 công an đến tiệm sửa xe tịch thu máy điện toán rồi đưa về khám nhà tịch thu sách và bắt tạm giam 12 giờ đồng hồ. Vợ ông Trần Văn Hòa khi trả lời cuộc phỏng vấn của ông Lê Minh ở Úc trên Paltalk cho hay 2 người trong gia đình và 3 nhân viên làm chung cũng bị gọi lên công an, gia đình chị cũng như đồng đạo Tin Lành đã bị áp bức từ cả 10 năm qua.
- Ngày 13/3, Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế từ Việt Nam lên tiếng: “Bất chấp mọi chỉ trích của dư luận quốc tế và sự phản đối quyết liệt của toàn dân trong và ngoài nước, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam đang thi hành một chiến dịch đại quy mô đàn áp tàn bạo các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền nhằm tiêu diệt niềm mơ ước dân chủ của dân tộc ta.”. “Ngoài ra, nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn giam giữ bất hợp pháp rất nhiều các nhân vật bất động chính kiến, các lãnh tụ nghiệp đoàn và tôn giáo như nhà báo Nguyễn Vũ Bình, các ông Huỳnh Nguyên Đạo, Trương Quốc Huy, Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Tấn Hoành, Đoàn Huy Chương... các lãnh tụ tôn giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Cao Đài, Hòa Hảo và hơn 350 tín đồ người Thượng theo đạo Tin Lành trên vùng Cao Nguyên Trung Phần...”
- Ngày 14/3, Linh Mục Chân Tín (87 tuổi, từng chống nhà cầm quyền miền Nam trước 1975, đã có 3 Bài Giảng Xám Hối năm 1990 kêu gọi đảng CSVN nên xám hối, trả lại nhân quyền và dân chủ cho dân tộc… vì vậy bị công an bắt và quản chế ở Cần Giờ), Chủ Nhiệm tờ bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ở Sài Gòn, khi trả lời cuộc phỏng vấn của ông Nguyễn Nam Phong từ Hoa Kỳ trên Paltalk đã lên tiếng cuộc đàn áp mới đâ lên các nhà đấu tranh Dân Chủ và cho hay: “Lúc nào cũng sẵn sàng nếu công an đến bắt giam… dù Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị bắt, tờ báo vẫn phát hành, vừa ra số 22.”, “Chế độ Cộng Hòa có khuyết điểm nhưng vẫn là một chế độ dân chủ, còn chế độ Cộng Sản ngày nay thì không có dân chủ, đảng này vô luân, tàn ác quá sức.”.
- Ngày 14/3, ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ Tịch ủy Ban Nhân Dân thủ đô Hà Nội, lưu vong tại Nga, đã đưa ra nhận định: “Thái độ thẳng thắn và rõ ràng nhất của những người dân chủ và của tất cả những ai có lòng tự trọng, có ý thức rõ rệt về quyền tự do dân chủ của mình là kiên quyết phản đối trò hề bịp bợm mà đảng CS đang bày ra để đánh lừa dư luận xã hội. Sự phản đối kiên quyết đó cần thể hiện ra bằng việc tẩy chay cuộc bầu cử.”.
- Ngày 14/3, ông Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn là Seth Winnick và 2 nhân viên đã ra tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định vấn an Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang.
- Ngày 14/3, Ủy Ban Nhân Quyền Hạ Viện Hoa Kỳ gồm các Dân Biểu Chris Smith, Ed Royce, Dana Rohrabacher, David cùng đại diện các đoàn thể hải ngoại như Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Giáo Sư Nguễn Ngọc Bích, Tiến Sĩ Trần Văn Hải, Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng, bà Ngô Thị Hiền… tổ chức họp báo tại quốc hội, lên án những hành vi khủng bố của nhà cầm quyền CSVN và yêu cầu Bộ Trưởng Ngoai Giao đặt vấn đề Nhân Quyền với ông Phạm Gia Khiêm. Dân Biểu Chris Smith đã phải nói: “Quá đủ rồi. Đã đến lúc phải để cho nhân quyền được phát triển ở Việt Nam.”.
- Ngày 15/3, Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng CSVN Phạm Gia Khiêm viếng thăm Hoa Kỳ (10-16/3), khi đến Wa DC bị khoảng hơn 100 người Việt từ khắp nơi ở Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp biểu tình phản đối trước quốc hội vì đang có sự gia tăng đàn áp tại Việt Nam, trong số đó có cụ Phan Vỹ, Linh Mục Đinh Xuân Long, các ông Lê Quyền, Lý Văn Phước, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Văn Tánh, Ngô Ngọc Trinh, Nguyễn Đình Thắng, Trần Quang Tuấn, Lê Hải Dương, Ngô Thị Hiền…từ Pháp qua có Luật Sư Trần Thanh Hiệp (80 tuổi), và Lại Thế Hùng, người góp tiếng từ Việt Nam là Đỗ Nam Hải và Lê Trí Tuệ (vừa bị công an hành hung), còn Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế gửi điện thư bằng tiếng Anh và được đọc lên. 4 người đại diện đã vào quốc hội trao Thỉnh Nguyện Thư cho Dân Biểu M. Martinez và Thượng Nghị Sĩ H. Reid. Sau đó đoàn biểu tình đi qua Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Theo lịch trình, ông Nguyễn Gia Khiêm được Bộ Trưởng Ngoại Giao Condoleezza Rice, Bộ Trưởng Quốc Phòng đón tiếp, gặp ông Robert Gates và Cố Vấn An Ninh Stephen Hartley và các lãnh đạo hai viện quốc hội. Bà Ngoại Trưởng Rice đã coi nhân quyền là một trong những vấn đề hàng đầu trong chương trình làm việc của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, thúc đẩy giải quyết vấn đề này cụ thể là nêu việc giam giữ Linh Mục Nguyễn Văn Lý.
- Ngày 15/3, 3 người Na Uy là bà Thérese Jebsen cùng phóng viên đài TV2 thuộc Rafto và thông dịch viên Trần Kiều (gốc Việt) đã bị bắt khi đến thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ ở Thanh Minh Thiền Viện, Sài Gòn. Hòa thượng đã phải thốt lên: “Tôi xấu hổ cho dân tộc và đất nước, nơi chẳng còn lại một chút tình người, không còn một chút gì văn hóa, lịch sự, văn minh...”.
- Ngày 15/3, 45 đoàn thể Việt Nam tại hải ngoại đã ký tên trong Bản Lên Tiếng Chung liên đới với các nhà Dân Chủ ở trong nước.
- Ngày 16/3, Kỹ Sư Phương Nam Đỗ Nam Hải bị công an áp lực mạnh mẽ lên gia đình là cha già yếu (86 tuổi), chị, con gái… trước mặt anh để khủng bố tinh thần suốt 12 giờ đồng hồ, rằng đã có lệnh bắt của Viện Kiểm Sát, nên hãy thuyết phục anh để được tha. Cả 3 người nhà anh đều khóc và nài nỉ anh, dù quên thân mình nhưng hãy nghĩ tới mẹ già đang bệnh năng ở nhà, nếu có chuyện gì làm sao sống nổi! Anh Hải đã nói với nhóm công an rằng: “Đây là một đòn thù rất độc ác và rất hèn hạ... Nhưng các ông không bao giờ có thể làm cho tôi khâm phục khẩu phục được cả.”. Nên vì chữ hiếu với cha mẹ và bổn phận với gia đình anh đã phải tạm xa Phong Trào Dân Chủ. Nhà của ông bị bao vây và ông bị theo dõi 24/24, đã bị tịch thu hay niêm phong đến máy điện toán thứ 5. Linh Mục Phan Văn Lợi và ông Nguyễn Chính Kết đã lập tức lên án hành động này là đê tiện. Nhưng trước những áp lực quá đáng của công an, trong Thông Báo số 13 của Khối 8406 ngày 20/3, ông Đỗ Nam Hải đã tuyên bố bất chấp đòn thù, không sợ tù, không sợ chết, sẽ trở lại hoạt động cùng với Khối 8406 với đại diện là Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Linh Mục Phan Văn Lợi và cựu Trung Tá Trần Anh Kim. Trước đó ngày 13/3, ông Hải đã bị một Trung Tá công an đe dọa sẽ bắt, ông đã trả lời và thuật lại qua đài RFA: “Tôi rất thanh thản và tôi chuẩn bị lâu rồi.”, lập lại câu nói cách nay 2 năm: “Tôi sẵn sàng bước vào một cái nhà tù nhỏ để dân Việt Nam sớm bước ra khỏi một cái nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy mang tên là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN”.
- Ngày 30/3, nhà cầm quyền đã đưa Linh Mục Nguyễn Văn Lý và 4 cộng sự ra tòa tại Huế (ngày 29/3 đã bị công an đến Bến Củi áp tải Linh Mục Lý đi cùng lúc với việc bắt những người kia) với nhiều cơ quan truyền thông trong nước như Lao Động, Thanh Niên, Tuổi Trẻ , VN Net và ngoài nước như AFP, AP, Rueters, nhưng không có thân nhân hay Luật Sư nào được tham dự, một số nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ, Úc, Bỉ, Thụy Điển, Thụy Sĩ được theo dõi các thủ tục và sau đó qua màn hình ở phòng riêng.
Hình ảnh sống động, tin tức trung thực và phê bình gắt gao đã được L’Express, Le Monde, ở Pháp, New York Times, Wall Treet Journal, Time ở Mỹ, The Economist ở Anh… loan đi. Các đài truyền hình ở Anh, Pháp đều chiếu cảnh phiên tòa… truyền đi khắp nơi đã gây xúc động dư luận người Việt và thế giới. Như lúc Linh Mục Lý bị cưỡng bức ra tòa trong khi 2 tay bị trói, 2 công an kềm kẹp kéo lê ông vì ông phản đối không chịu ra tòa, không chịu đứng trước vành móng ngựa mà còn đạp vành này, cũng như tại phiên tòa Linh Muc đã đọc bài thơ “Tòa Án CSVN” chỉ trích tòa này, mới được 4 câu thì bị bịt miệng lôi ra. Lần thứ 2 khi bị lôi trở lại phòng xử, Linh Mục đã kết án tòa án này là đã làm dân tộc trở thành hèn nhát nên lại bị bịt miệng và lôi ra. Lần thứ 3 bị lôi vào phòng xử, ông đã hô “Đả đảo đảng Cộng Sản Việt Nam” nên lại lập tức bị tên công an tên Nguyễn Minh Tân bịt miệng và cùng 2 công an khác kéo ra ngoài... Tổng cộng Linh Mục Lý bị bịt miệng 3 lần và lôi ra khỏi tòa 3 lần. Tòa đã xử Linh Mục Nguyễn Văn Lý 8 năm tù và 5 năm quản chế, Nguyễn Phong 6 năm tù và 3 năm quản chế, Nguyễn Bình Thành 5 năm tù và 2 năm quản chế, chị Hoàng Thị Anh Đào 2 năm tù treo và 3 năm thử thách, Lê Thị Lệ Hằng (mặc áo trắng nhưng không được chấp nhận) 1 năm rưỡi tù treo và 2 năm thử thách. Họ bị kết án về tội “Phát tán tài liệu chống phá nhà nước và liên lạc với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại.”. Trước tòa, các nhà đấu tranh dân chủ đều tỏ ra bình tĩnh, phản cung và khẳng định lập trường đấu tranh chính đáng của mình. Trước đó cùng ngày, ông Nguyễn Phong đã nhân danh đảng Thăng Tiến ra Tuyên Bố phủ nhận những tội danh mà phiên tòa gán ghép là vi phạm điều 88… Từ năm 1977 tới nay, Linh Mục Nguyễn Văn Lý đã bị đưa ra tòa 4 lần, tổng cộng các bản án là 53 năm tù và đã từng ở tù tổng cộng trên 15 năm.
Ngày 1/4, Ủy Ban Phối Hợp Tranh Đấu Cho Tự Do, Dân Chủ Và Nhân Qyuền Tại Việt Nam quy tụ khoảng 30 đoàn thể đã tổ chức một cuộc biểu tình tại Little Saigon và ra Tuyên Bố lên án vụ xét xử này. Ngày 1/4, ông Lê Minh nguyên, Trưởng Ban Phối Hợp Mạng Lưới Nhân Quyền ra Bản Lên Tiếng phản đối vụ xét xử này. Ngày 4/4, Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam tại Paris đưa ra nhận định về bản án phi lý xử Linh Mục Nguyễn Văn Lý… và đặt trách nhiệm nơi các nước Âu-M ỹ. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là ông Sean McCormack cho hay chính phủ Hoa Kỳ quan tâm sâu sắc về việc Linh Mục Lý bị kết án… Nhiều nhân vật thế giới lên tiếng như ông Vincent Brossel kêu gọi không nên xử Linh Mục Lý, Dân Biểu Cộng Hòa Chris Smith cũng lên tiếng cho việc kết án là tàn bạo và vô nhân đạo…
- Ngày 3/4, tòa án Thái Lan đã xử phiên phúc thẩm, coi hành động thả truyền đơn của ông Lý Tống vào tháng 11/2000 (nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến VN, bị tòa Thái kết án 7 năm 4 tháng tù và giảm còn 5 năm 6 tháng, mãn hạn tháng 5/2006, nhưng bị giam tiếp chờ vu giải giao cho tới nay) là hành vi chính trị và không có tính cách đe dọa an ninh Việt Nam, nên quyết định không giải giao ông về Việt Nam (bác bỏ quyết định giải giao của tòa sơ thẩm hồi tháng 9/2006). Như vậy coi như vụ xét xử đã chấm dứt và ông Lý Tống được tự do để về Hoa Kỳ. Ông Lý Tống là phi công phản lực A37 Của quân lực VNCH, bị bắn rới hồi tháng 4/1975 ở Phan Rang và bị quân Cộng Sản bắt, sau đó ông đã vượt ngục về Sài Gòn, rồi vượt biên qua Thái, bị giam, lại vượt ngục qua tận Tân Gia Ba (Singapore) (những chuyện vượt ngục hơn cả Pabilon này đã được tạp chí quốc tế Reader Digest đăng tải), cuối cùng tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Năm 1992, ông cũng đã từng áp lực một máy bay của Air VN thả truyền đơn, bị nhà cầm quyền bắt và xử 20 năm tù, nhưng được thả ra vào năm 1998.
Đồng hương ở Hoa Kỳ chuẩn bị đón ông Lý Tống trở về.
- Ngày 5/4, Đại Sứ Marine và bà Dân Biểu Loretta Sanchez đã không mời được thân nhân các nhà đấu tranh Dân Chủ tới tư gia của ông ở Hà Nội vì công an dùng vũ lực ngăn chặn. Công an xô xát hai người phụ nữ là bà Vũ Thúy Hà là vợ Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, và bà Bùi Kim Ngân là vợ nhà báo Nguyễn Vũ Bình, đến mức ông Marine phải la lên: “Người ta là phụ nữ, các anh không thể đối xử với phụ nữ như vậy.” nhưng không ăn thua gì. DB Loretta Sanchez cho hay: “Tôi thấy khoảng 15 người, người gác mặc đồng phục có, an ninh mặc thường phục có, chặn họ lại.”, “Họ vẫn cố gắng vào, thì những người này dùng vũ lực chặn họ lại. Họ hành xử như côn đồ (nguyên văn: ‘goons’).”. Theo dự tính, Đại Sứ Michael Marine và bà Loretta Sanchez sẽ gặp bà Vũ Thúy Hà, bà Bùi Thị Kim Ngân bà Trần Thị Lệ là thân mẫu Luật Sư Lê Thị Công Nhân, bà Vũ Minh Khánh là vợ Luật Sư Nguyễn Văn Đài và bà Nguyễn Thị Thu Hiền là vợ Luật Sư Lê Quốc Quân nhưng hầu hết bị công an ngăn chặn từ xa và từ trước.
- - - - -
- Ngày 19/3/2007, nhà nước dự trù đưa anh Trương Quốc Huy, 27 tuổi, ra tòa nhưng hoãn lại. Anh bị bắt lần thứ 2 ngày 18/8/2006 (lần đầu bị bắt ngày 19/10/2005 cùng cô Phạm Ly Sa từ Hoa Kỳ về và đều bị giam 9 tháng không xét xử) khi anh đang ở môt cửa tiệm dịch vụ Liên Mạng (Internet).
- - - - -
Trong khi đó, đã có một số hoạt động âm thầm của đảng Việt Tân hay đảng Dân Chủ Nhân Dân, đầu tháng 9/2006, có 3 đảng viên cấp trung ương của đảng này bị bắt, sau đó, do sự can thiệp mạnh mẽ của Hoa Kỳ, nhà cầm quyền Việt Nam đã phải lập tức thả ông Đỗ Thành Công về lại Hoa Kỳ. Tuy các đảng này chưa có thực lực đáng kể và công khai, nhưng đã có được sự dũng cảm bước đầu cho mục tiêu đa nguyên, đa đảng.
Nói chung các tổ chức đấu tranh dân chủ đã bị đàn áp, nhưng nhiều người vẫn bất chấp, tiếp tục đứng lên. Dân chúng kiếu kiện, kêu oan các nơi kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà Nội, về Sài Gòn và nhiều nơi trên toàn quốc cũng bị công an bắt đi hành hạ. Một số người đã can đảm thu âm được những buổi công an hành hạ họ một cách thô bạo và gửi cho các đài phát thanh, các diễn đàn hay đưa lên mạng lưới toàn cầụ Phải chăng chủ trương của nhà cầm quyền là tạm thời để yên những người cầm đầu vì họ đã từng ở tù và tuyên bố không sợ bị bắt, không sợ chết, nhưng gia tăng khủng bố đối với những người cộng tác hoặc với những người mới.
Đây là việc kết tập lực lượng và tư duy của những người có trình độ và quan tâm nhiều đến vận mạng đất nước. Những nỗ lực kết hợp giữa những người ở trong và ngoài nước ngày càng được đẩy ma.nh. Quan điểm của các nhóm có thể có nhiều chỗ tương dị với người đọc, nhưng tựu chung đều mong muốn có một sự thay đổi phù hợp với tình hình Việt Nam trong ôn hòa mà vẫn duy trì được sự phát triển và độc lập...
Nếu kết hợp câu nói của Karl Marx ngày xưa và Trần Mạnh Hảo mới đây thì:
"Tư Bản Đỏ đang tự đào hố chôn mình!?
Chủ Tịch Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan, ông Lech Walesa đã nói:
“Cộng Sản là con đường dài nhất để đi từ Tư Bản đến Tư Bản.”.
Mà đây là thứ Tư Bản tụt hậu hàng 30, 50 năm, hay cả 100 năm, và giai cấp cầm quyền vươn lên bằng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, bóc lột hơn cả Tư Bản thế kỷ 18, 19. Thường người ta kinh doanh rồi giầu có, còn giai cấp thống trị thành “Tư Bản Đỏ” với tốc độ kỷ lục, họ giầu có rồi mới kinh doanh để che giấu và đánh lạc hướng về tài sản khếch xù vơ vét được. Do đó mọi hy sinh cho Chủ Nghĩa Cộng Sản rõ ràng đều trở thành vô ích!
Một người khác cũng đã nói đại ý:
“Biến cố lớn nhất trong thế kỷ 20 của nhân loại
là sự ra đời và tan rã của chủ nghĩa Cộng Sản.”.
Nhiều người đã nói:
"Độc Lập để cứu quốc, Dân Chủ để kiến quốc!".
Tóm lại, thay vì đường hướng xây dựng là: “Lấy tư tưởng Mác - Lê - Mao làm nền tảng và bạo lực làm vật liệu xây dựng căn nhà Việt Nam.”, thì như ý của cụ Nguyễn Lộ Trạch và Phan Bội Châu, phải là: “Lấy chính đạo (đạo đức) Đông Phương làm nền tảng và khoa học kỹ thuật Tây Phương làm vật liệu xây dựng căn nhà Việt Nam.”.
- - - - -
Xin ghi lại một bài thơ trên Liên Mạng:
10 Điều Ước Mơ
Một mơ tín ngưỡng, nhân quyền
Mai này hiện hữu khắp trên nước nhà
Thị thành đến các vùng xa
Không đâu còn có cảnh hà hiếp xưa
Hai mơ chốn chốn cõi bờ
Người dân được hưởng ấm no, thanh bình
Thoát nơi tăm tối, điêu linh
Sống đời nhung gấm, đậm tình yêu thương
Ba mơ lễ nghĩa học đường
Thuần phong, mỹ tục quê hương phục hồi
Qua nhiều năm tháng buông trôi
Theo nền giáo dục suy đồi, u mê
Bốn mơ rực rỡ sơn khê
Tự do, dân chủ tứ bề nở hoa
Lệ vui khoé mắt mẹ già
Đón chờ lòng đã thiết tha bao ngày
Năm mơ phất phới tung bay
Cờ vàng sọc đỏ sum vầy núi sông
Đẩy lui tai ách rợ hồng
Ba mươi năm xích giống dòng tù lao
Sáu mơ dân ý trưng cầu
Đón mừng chính phủ phiếu bầu, đăng quang
Dựng xây xã hội công bằng
Có nền pháp trị vì dân, an hòa
Bảy mơ chính nghĩa quốc gia
Trong từng sử sách ngọc ngà ghi công
Gương tranh đấu chấp sống còn
Cứu non nước thoát khỏi vòng trầm luân
Tám mơ dân trí nhân quần
Nhu cầu văn hoá ngày càng phát huy
Là nền tảng lẫn thành trì
Giúp dân tộc tiến bước đi vững vàng
Chín mơ một dải giang san
Từ Cà Mau đến Nam Quan nối liền
Giành về cương thổ tổ tiên
Bị người cống nạp bạo quyền Trung Hoa
Mười mơ xã tắc sơn hà
Đời đời cường thịnh, chan hòa yên vui
Sau muôn sóng gió cơ trời
Xuôi miền lạc phúc, sáng ngời bình minh.
Vntvnd, 12/3/2006
- - - - -
Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều những cuộc cách mạng Dân Chủ bất bạo động tại Ấn Độ năm 1922-47, Phi Luật Tân năm 1986, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1956, 1970, 1976, rồi 1980-89, Đông Âu năm 1989-90… (xem trang nhà dưới đây)
http://www.hoamai.org/VIDAN/tailieu/DT_BBD_01.htm#Kinh%20nghi?m%20Nga%20so
Xin xem thêm bài “Quy Luật Đấu Tranh” và “Đấu Tranh Bạo Động Hay Bất Bạo Động?” của cùng tác giả.
Đ T M 2006, 2007
- - - - -
(Tin liên hệ)
Quỹ Dân Chủ LHQ Tài Trợ, Thúc Đẩy Dân Chủ Hóa Toàn Cầu
LIÊN HIỆP QUỐC (AP) - Tháng 7/2005, theo sáng kiến của Tổng Thống G. Bush, Tổng Thư Ký Kofi Annan đã thiết lập Quỹ Dân Chủ LHQ (The United Nations Democracy Fund) và các lãnh tụ thế giới đã ủng hộ vài tháng sau đó. Ông Annan chủ tọa buổi họp Hội Đồng Cố Vấn đầu tiên với 17 thành viên, là cơ quan sẽ chọn các dự án ở nhiều nước khác nhau nhằm củng cố các cơ chế dân chủ và củng cố chính quyền dân chủ, cụ thể là giúp nhiều nước đặt nền móng dân chủ bằng cách lập các định chế pháp trị, các tòa án độc lập, nền tự do báo chí, các đảng chính trị và các công đoàn.
Quỹ Dân Chủ LHQ đã nhận đóng góp và lời hứa từ 17 quốc gia, với Ấn Độ và Mỹ mỗi nước góp 10 triệu đô-la và tổng cộng lời cam kết góp quỹ từ các chính phủ là 41 triệu đô-la.
- - - - -
Sức Mạnh Quần Chúng Sẽ Quyết Định
Khai triển Lộ trình 9 điểm dân chủ hóa Việt Nam
BS Nguyễn Đan Quế
(Tóm lược)
Lòng dân thực sự mong muốn có chuyển tiếp ít rối loạn, muốn vậy cần kinh qua một giai đoạn ngắn chuyển nghị trường sang dân chủ. Hiện áp lực đòi thay đổi trong - ngoài đang lên cao mạnh mẽ, và chắc chắn sẽ còn mạnh hơn nữa. Dù muốn hay không, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản cũng phải:
1. Chấp nhận thông tin hai chiều, trong - ngoài ra vào dễ dàng.
2. Thả hết các tù nhân chính trị.
3. Nới rộng các nhân quyền căn bản của người dân như tự do phát biểu ý kiến, báo chí, đi lại, lập hội …
4. Tôn trọng các tôn giáo và các sắc dân thiểu số.
5. Trao trả lại cho Quốc Hội vai trò là cơ quan quyền lực tối cao của đất nước, đúng như hiến pháp quy định.
6. Tuyên cáo Việt Nam là một quốc gia tôn trọng nhân quyền, dân quyền và tài quyền.
7. Bãi bỏ tất cả các hoạt động của đảng trong chính quyền.
8. Soạn và thông qua luật bầu cử tự do, công bằng, có sự giám sát của quốc tế.
9. Quốc hội đứng ra tổ chức tổng tuyển cử để bầu các đại biểu vào Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp mới cho Việt Nam (Sử dụng bộ máy hành chánh đã tách ra khỏi ảnh hưởng của đảng và chiếu theo luật bầu cử trên).
- - - - -
Phụ lục Tổng Đình Công…
Sự kiện chưa từng có tại VN: Dân chúng tự động vùng lên đòi quyền sống.
Phóng ảnh hình anh Nguyễn Tấn Hoành và thư của các anh chị em công nhân vào giữa tháng 2/2006.
(Trích)
Nỗi Niềm Khóc Hận Thương Tâm
của tầng lớp công nhân lao động nhập cư nghèo từ các tỉnh về thành phố
Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) Đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do Đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
- Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.
- Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn, Quảng Nam.
- Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hoà II.
- Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, khu công nghiệp Tân Bình, khu chế xuất Vĩnh Lộc.
- Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon.
Chúng tôi là những công nhân có tên trên đây đại diện cho một số anh chị em công nhân trong nước có tiếng nói chung, yêu cầu và đề xuất những điều kiện sau đây với Bộ Chính Trị và TW Đảng CSVN như sau:
1. Trả lương cho chúng tôi theo đúng hợp đồng của nhà nước Việt Nam với các nhà đầu tư, thương gia nước ngoài có công ty xí nghiệp tại Việt Nam theo mức giá đồng USD thị trường.
2. Mức lương phải ngang bằng các công nhân các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia…
3. Dẹp bỏ Công đoàn do đảng (CS) xây dựng đưa vào các công ty xí nghiệp.
4. Không được phát triển đoàn, đảng trong hệ thống công nhân chúng tôi, để rồi quay lại đàn áp chúng tôi. Vì chúng tôi chỉ là những người đi làm mướn làm thuê bình thường, không muốn tham gia chính trị, chúng tôi không muốn hệ thống độc tài, độc quyền đeo đẳng chúng tôi, vì chúng tôi đã quá khổ rồi.
5. Chúng tôi có quyền tự hợp đồng lao động cá nhân và tập thể khi đã dẹp bỏ hệ thống công đoàn, vì tổ chức công đoàn không đem lại quyền lợi thiết thực cho chính người công nhân chúng tôi, mà chính họ lại ăn theo phần trăm sản xuất của chúng tôi, và mỗi khi chúng tôi muốn đòi hỏi quyền lợi chính đáng phải được sự đồng ý của công đoàn là phi lý.
6. Chúng tôi không phải đóng góp những khoản tiền như xoá đói giảm nghèo và các loại và các loại tiền do Công đoàn phát động và trừ thẳng vào lương của chúng tôi như trước đây đã có.
7. Chúng tôi phải được quyền lợi như: bảo hiểm y tế, tiền lương hưu sau khi hết độ tuổi lao động, bảo hiểm tai nạn lao động rủi ro…
8. Chúng tôi có quyền hội họp riêng tư, có quyền lập hội, gây quỹ, có quyền đấu tranh, có quyền đình công đòi hỏi các quyền lợi chính đáng, phù hợp mức lương, tương xứng với công sức lao động. Những đòi hỏi ước vọng này, chúng tôi được thực hiện cũng không gây ảnh hưởng kinh tế thị trường và nền an ninh, như nhà nước và bộ phận công an thường cho là thế lực thù địch gây ảnh hưởng kinh tế quốc gia.
Nếu chúng tôi không được thực hiện 8 điểm yêu cầu trên, chúng tôi sẽ chọn một điểm phát động đấu tranh giành quyền làm chủ các nhà máy, xí nghiệp công ty của những tay tư bản ngoại quốc, như trước đây chủ nghĩa CS đã làm. Và chúng tôi làm đúng chính sách chủ trương của đảng cộng sản Việt Nam, là nơi nào có bóc lột, áp bức, nơi đó phải vùng lên đồng loạt giành quyền làm chủ; đánh đổ các tập đoàn tư bản, giành quyền làm chủ cho dân nghèo.
- - - - -
22 Trí Thức VN Gửi Lời Kêu Gọi Cho Quyền Công Nhân
(7 điểm lêu gọi)
LGT: Ngày 19-3, một Lời Kêu Gọi mang chữ ký của 22 vị tu sĩ và nhân sĩ, đại diện cho một số nhà đấu tranh dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam, đã được phổ biến, nhằm hỗ trợ cho các cuộc đình công của công nhân đang diễn ra ở trong nước từ nhiều tháng nay. Nội dung Lời Kêu Gọi như sau.
Hỡi các Công nhân toàn Đất nước,
Hãy liên kết đòi hỏi Công bằng và Lẽ phải!
Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Kính thưa toàn thể Quý vị yêu chuộng Nhân quyền khắp năm châu,
Chúng tôi, đại diện một số nhà đấu tranh cho Dân chủ Nhân quyền tại Việt Nam, xét rằng:
1- Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 56 đã ghi: "Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương." Và điều 10 đã ghi: "Công đoàn là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động... chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác."
2- Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, được biểu quyết ngày 16-12-1966 và Việt Nam xin gia nhập ngày 24-9-1982, điều 7 đã ghi: "Các Quốc gia thành viên của Công ước công nhận quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt bảo đảm:
(a) trả thù lao cho tất cả mọi Công nhân ít nhất với: (i) tiền lương thỏa đáng và thù lao bằng nhau cho những công việc có giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào... (ii) một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ...;
(b) những điều kiện làm việc an toàn và vệ sinh;
(c) cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt...;
(d) sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ."
Điều 8 Công ước cũng đã ghi: "Các Quốc gia thành viên của Công ước cam kết bảo đảm:
(a) quyền của mọi người được thành lập và gia nhập Công đoàn mà mình lựa chọn, chỉ phải tuân theo quy chế của Tổ chức đó để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình...;
(b) quyền của các Tổ chức Công đoàn được thành lập các Liên hiệp Công đoàn Quốc gia và quyền của các Liên hiệp Công đoàn được thành lập hay gia nhập các Tổ chức Công đoàn Quốc tế;
(c) quyền của các Công đoàn được tự do hoạt động, không hề bị một sự hạn chế nào ngoài những hạn chế do Luật pháp quy định và cần thiết đối với xã hội dân chủ vì lợi ích của an ninh quốc gia và trật tự công cộng...;
(d) quyền đình công với điều kiện là quyền này phải được thực hiện phù hợp với Luật pháp của mỗi Nước".
3- Giáo huấn của Giáo hội Công giáo qua Công đồng chung Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ ngày 07-12-1965, đã xác định: "Trong những hoàn cảnh cụ thể, chính xã hội có bổn phận góp phần giúp người Công dân có thể tìm được công ăn việc làm... Việc làm cần phải được trả lương sao cho Con Người có đủ khả năng xây dựng cho mình và gia đình một đời sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần. Hoạt động kinh tế thường là kết quả của việc hợp tác giữa nhiều người.
Do đó, nếu tổ chức và điều hành hoạt động này làm thiệt hại cho bất cứ lớp Công nhân nào thì đều là bất công và vô nhân đạo. Ngay cả ngày nay, điều thường xảy ra là Công nhân trở thành nô lệ cho chính việc làm của mình. Điều ấy không thể được biện minh bằng bất cứ luật kinh tế nào" (số 67). "Giữa những quyền lợi căn bản của Con Người, đối với Công nhân, cần phải kể đến quyền được tự do lập những Hiệp hội để có thể thực sự đại diện cho họ và góp phần vào việc tổ chức đời sống kinh tế một cách tốt đẹp. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến quyền tự do tham gia vào hoạt động của những Hiệp hội này mà không sợ bị trả thù" (số 68).
4- Từ cuối năm 2005 đến nay, hàng mấy chục cuộc biểu tình đình công đồng loạt của hơn trăm ngàn Công nhân trong các công ty xí nghiệp ngoại quốc lẫn quốc doanh khắp cả đất nước để đòi tiền lương thỏa đáng, đòi cải thiện chế độ làm việc và nghỉ ngơi, đòi bảo hiểm xã hội đầy đủ, đòi được chủ nhân tôn trọng nhân phẩm, đòi sửa đổi luật lao động, đặc biệt đòi quyền thành lập Công đoàn Tự do... và đối lại là những phương cách giải quyết hoàn toàn không thỏa đáng, rất bất công của Nhà cầm quyền..., tất cả đã vẽ ra một bức tranh u ám và thê thảm về tình trạng giới Công nhân tại Việt Nam (bức tranh này được thể hiện cách sinh động trong thư đơn "Nỗi niềm Khóc hận Thương tâm của tầng lớp Công nhân lao động nhập cư nghèo từ các tỉnh về thành phố" do 11 Công nhân nam nữ rất dũng cảm đã đưa lên mạng thông tin toàn cầu ngày 18-2-2006).
Thứ đến, các sự kiện ấy cho toàn thể thế giới thấy rằng đảng Cộng sản Việt Nam, vốn luôn vỗ ngực tự xưng là "đội tiên phong của giai cấp Công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp Công nhân, Nhân dân lao động" (Hiến pháp điều 4) đang hoàn toàn đi ngược với những gì đã được nói bô bô trên môi miệng các nhà lãnh đạo, đã được viết ra trang trọng trong Hiến pháp và đã được cam kết tuân giữ trong Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nói trên, khi họ thay vì bênh vực Công nhân Đồng bào mình, thì lại đứng về phía giới chủ tư bản nước ngoài để khống chế mức lương và điều kiện làm việc của Công nhân Việt xuống đến mức không thể chấp nhận được. Điều này đang và sẽ gây ra tai họa khôn lường ngày càng nặng nề cho Đất nước và Dân tộc.
Đứng trước thực trạng bùng nổ bi thảm đó, toàn thể chúng tôi:
1- Chân thành biểu dương ý thức sắc bén về Nhân quyền, tinh thần đoàn kết, dũng cảm và kiên trì của Anh Chị Em Công nhân, lần đầu tiên trong chế độ cộng sản độc tài Việt Nam, đã biết cùng nhau đứng lên đấu tranh không những với những chủ tư bản bóc lột mà còn với một Nhà cầm quyền toàn trị đàn áp, để đòi hỏi mọi Quyền lợi chính đáng cho mình và từ đó đòi hỏi Công lý cho toàn Dân. Chúng tôi đặc biệt cảm phục và hoàn toàn ủng hộ 11 Anh Chị Em Công nhân đã viết ra bức Tâm thư với 8 yêu sách rất chính đáng ngày 18-2-2006 vừa qua.
2- Cương quyết đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải mau chóng sửa đổi luật lao động cho phù hợp với tiêu chuẩn văn minh và nhân quyền quốc tế; tạo điều kiện để các Công nhân tự thành lập các Công đoàn có khả năng bênh vực quyền lợi chính đáng của mình thay cho Công đoàn công cụ tay sai tai mắt do chính Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã dựng lên; trả lương tối thiểu cho Công nhân trong và ngoài công ty xí nghiệp quốc doanh đồng đều nhau và ngang mức lương tối thiểu của khu vực; cải thiện điều kiện làm việc, nghỉ ngơi, ăn ở, y tế, hưởng thụ văn hóa của Công nhân; và phải cung cấp thông tin đầy đủ đồng thời trả tự do lập tức và vô điều kiện cho gần 100 Công nhân đình công đang bị giam giữ bí mật theo như phát hiện của báo chí quốc tế.
3- Cương quyết đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam không được dùng bạo lực để đàn áp các cuộc đình công, không được sửa đổi luật lao động theo chiều hướng nhằm hoàn toàn qui kết các cuộc đình công chính đáng là vi phạm pháp luật, không nên hạ mình xin lỗi hay uốn lưỡi lấy lòng các chủ tư bản ngoại quốc mà trái lại phải xin lỗi và đền bù cho các Công nhân Việt Nam do đã bóc lột họ quá nặng nề và đã đẩy gia đình họ đến chỗ điêu đứng. Thử hỏi khi lãnh đạm trước nỗi khổ nhục của chính Công nhân Đồng bào lao động để làm vừa lòng giới tư bản ngoại quốc như vậy thì Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam còn xứng đáng là một Nhà Nước vì Dân và cho Dân nữa không?
4- Cương quyết đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải thay đổi chính sách "xuất khẩu lao động" mà bao năm qua đã liên tục xúc phạm nặng nề Nhân phẩm của chính Công dân mình vì đã coi họ chỉ như một mặt hàng xuất khẩu, gây ra thảm nạn Công nhân đi lao động nước ngoài đã và đang bị bóc lột bởi các công ty môi giới quốc nội và các công ty tuyển dụng ngoại quốc, bị đẩy vào kiếp nô lệ lao công hay nô lệ tình dục hết sức thê thảm ở xứ người, bị các Tòa Đại sứ và Lãnh sự Việt Nam bỏ mặc hay hăm dọa. Đây là một nỗi ô nhục lớn lao cho Đất nước, một nỗi đớn đau xé lòng của toàn thể Dân tộc hôm nay.
5- Kêu gọi giới trí thức và giới tu hành (đặc biệt hàng lãnh đạo) hãy kịp thời và can đảm lên tiếng bênh vực công khai và hiệu quả các Anh Chị Em Công nhân thấp cổ bé miệng, thay vì dửng dưng vô cảm, hoặc cùng lắm chỉ lẳng lặng xót xa cho họ, hoặc chỉ bí mật van xin cường quyền nương tay hay chỉ âm thầm giúp đỡ một vài Công nhân riêng lẻ. Tiếng nói của các thế lực tinh thần sẽ góp phần rất lớn vào việc giải cứu giới công nhân Việt Nam khỏi thảm trạng bị bóc lột vào loại tồi tệ nhất thế giới hiện nay, chuyển đổi chế độ độc tài vốn luôn rêu rao bênh vực quyền lợi của Nhân dân, đặc biệt Nhân dân lao động, nhưng thực tế thì hoàn toàn trái ngược như thảm trạng giới lao động Việt Nam hiện nay đang minh chứng quá rõ ràng. Ước gì giới trí thức và giới tu hành luôn ý thức rằng chính nhờ Anh Chị Em Công nhân đang lao động vất vả kiệt lực đêm ngày cho bao người được thảnh thơi, nghiên cứu, tu hành, hoặc du lịch, thư giãn!
6- Kêu gọi Anh Em Quân nhân Binh sĩ và Công an Cảnh sát hãy vì lương tâm và tình tự Dân tộc mà đứng về phía Nhân dân, bênh vực Đồng bào lao động đang bị cường quyền bóc lột đàn áp, chứ đừng tiếp tục trở thành công cụ bạo lực trong tay đảng và nhà cầm quyền Cộng sản như hơn nửa thế kỷ qua.
7- Kêu gọi Đồng bào Hải ngoại tiếp tục lưu tâm đến hoàn cảnh bi đát của công nhân Việt Nam hiện nay, thành lập Quỹ Hỗ trợ Đình công giúp người lao động trong Nước (theo sáng kiến của nhóm Việt kiều Tây Úc), Quỹ Hỗ trợ Pháp lý giúp người lao động ở nước ngoài (theo sáng kiến của nhóm VietAct tại Đài Loan), vận động các Chính phủ và các Tổ chức Quốc tế, đặc biệt các tổ chức Công đoàn, để họ nêu việc tôn trọng quyền Công nhân cách minh bạch như một trong các điều kiện đòi buộc Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải đáp ứng khi xin gia nhập hoặc liên kết với các Cơ quan Quốc tế, cụ thể lúc này là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đó là một trong những phương cách hữu hiệu và nhanh chóng để đưa chế độ Cộng sản vô nhân bản, phản nhân quyền, phi dân chủ này đi vào quá khứ.
Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả Quý Vị. Nguyện xin Tạo Hóa, Đấng đã trao trái đất cho bàn tay và khối óc loài người để xây dựng hành tinh nầy thành một thế giới đầy an bình và tình thương, ban nhiều sức mạnh đấu tranh cho toàn thể Công nhân Việt Nam và soi dẫn sáng kiến lẫn thúc đẩy nhiệt tình cho chúng ta để hỗ trợ họ.
Kêu gọi từ Việt Nam ngày 19-03-2006,
Thay mặt một số nhà đấu tranh cho Dân chủ Nhân quyền tại Việt Nam:
1. Linh mục G.B. Nguyễn Cao Lộc, Huế
2. Đạo trưởng Lê Quang Liêm, Sài Gòn
3. Linh mục Têphanô Chân Tín, Sài Gòn
4. Gs Hoàng Minh Chính, Hà Nội
5. Linh mục Augustinô Hồ Văn Quý, Huế
6. Gs Trần Khuê, Sài Gòn
7. Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hội, Huế
8. Cựu Đại tá Phạm Quế Dương, Hà Nội
9. Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Huế
10. Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Sài Gòn
11. Linh mục Giuse Hoàng Cẩn, Huế
12. Tu sĩ Nguyễn Văn Thơ, Đồng Tháp
13. Linh mục G.B. Lê Văn Nghiêm, Huế
14. Tu sĩ Lê Văn Sách, Vĩnh Long
15. Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, Huế
16. Nhà văn Hoàng Tiến, Hà Nội
17. Linh mục Đa Minh Phan Phước, Huế
18. Nguyễn Khắc Toàn, Hà Nội
19. Linh mục Giuse Trần Văn Quý, Huế
20. Gs Nguyễn Chính Kết, Sài Gòn
21. Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Huế
22. Ks Đỗ Nam Hải, Sài Gòn
- - - - -
- - - - -
Ngày 25/4/2006, TBT Nông Đức Mạnh họp báo
- Hiện nay, VN có sự cạnh tranh kinh tế, những năm tới có cạnh tranh trong chính trị hay không?
- Quá trình đổi mới của VN với không khí dân chủ cởi mở, sự đồng thuận của xã hội, ý thức xây dựng của nhân dân trong 20 năm qua, tôi nghĩ cạnh tranh trong làm ăn là bình thường. Sắp tới, khi Việt Nam tham gia WTO sẽ trên tinh thần cạnh tranh lành mạnh để tạo điều kiện phát triển. Trong chính trị, không khí dân chủ sẽ ngày càng tốt hơn. Tôi nghĩ không có sự tranh chấp quyền lực, có thể có ý kiến khác nhau nhưng là để đi tới tạo sự đồng thuận giữ vững sự ổn định để phát triển. Không chỉ muốn nghe ý kiến tốt, chúng tôi xây dựng cơ chế phải dám nghe, biết nghe ý kiến đóng góp kể cả gay gắt để tạo sự đồng thuận và phát triển xã hội.
Hàng trăm nhà báo tham dự buổi gặp Tổng bí thư chiều nay. Ảnh: Đ.H.
- Đại hội X cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân, trong thời gian tới có tính đến vấn đề kết nạp những ông chủ tư bản tư nhân vào Đảng không?
- Chủ trương lớn mà Đại hội đã quyết định là Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Trong 20 năm đổi mới, chúng tôi đã có tổng kết Đảng viên làm kinh tế. Lúc đầu, Đảng viên không được làm, nhưng bước vào thời kỳ đổi mới đã có nhiều tấm gương làm kinh tế tốt, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Ngoài kết quả thu nhập cho mình, họ còn góp phần phát triển kinh tế xã hội. Từ thực tiễn ấy, Đại hội X đã quyết định: Đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng phải gương mẫu chấp hành pháp luật, quy định nhà nước và tuân thủ quy định của điều lệ Đảng.
Sắp tới, Ban chấp hành sẽ có quy định cụ thể Đảng viên làm kinh tế tư nhân thế nào. Trong lúc này, mục tiêu là thoát khỏi đói nghèo, Đảng viên cũng phải hành động, cũng phải làm, không có gì mâu thuẫn.
Nếu xét những ông chủ tư nhân vào Đảng thì phải có quy định rất chặt chẽ.
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire