VÀI SUY NGHĨ NHÂN LỄ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
(Trình bày trong lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 22-4-2007 tại thành phố Mississauga, Ontario)
TRẦN GIA PHỤNG
Kính thưa các bậc Trưởng thượng,
Thưa quý vị Quan khách,
Hôm nay, chúng ta tề tựu về đây để cùng nhau cử hành lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, tưởng nhớ công đức mở nước và dựng nước của tổ tiên chúng ta. Ngày nay, nhất là ở hải ngọai, với tinh thần khoa học thực nghiệm, nhiều người cho rằng Hùng Vương chỉ là một truyền thuyết chứ không có thật trong lịch sử, vì người không thể sinh ra trứng, và trứng không thể nở thành người… Tuy thế, không thể quá đơn giản đánh giá truyền thuyết Hùng Vương chỉ bằng khoa học thực nghiệm.
Truyền thuyết Hùng Vương chính thức xuất hiện trong bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên vào thế kỷ 15. Lúc đó, nhà Minh bên Trung Hoa vừa mới xâm chiếm nước ta từ năm 1407 đến năm 1428. Tuy chỉ chiếm đóng trong khoảng thời gian trên 20 năm, nhưng chính sách đô hộ của nhà Minh rất thâm hiểm, nhất là chính sách văn hóa. Vua Minh đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy toàn bộ sách vở của người Việt, kể cả các bia đá ghi lại công đức của tiền nhân. Nhà Minh áp đặt văn hóa và phong tục Trung Hoa, phát hành rộng rãi sách vở kinh điển Trung Hoa. Nếu sách vở của người Việt hoàn toàn bị tiêu hủy, thì người Việt phải sử dụng sử sách Trung Hoa, từ đó dần dần người Việt quên đi quá khứ của chính dân tộc mình. Nhà Minh muốn đồng hóa người Việt và muốn biến nước Việt thành một quận huyện của Trung Hoa. Âm mưu đen tối nầy cuối cùng thất bại trước sức đề kháng mạnh mẽ của người Việt lúc bấy giờ, do anh hùng Lê Lợi lãnh đạo. Cuối cùng quân Minh phải về nước năm 1428, nước Việt lại độc lập.
Kính thưa quý vị,
Đặt lại xuất xứ của truyền thuyết Hùng Vương để hiểu vì sao truyền thuyết nầy xuất hiện trong dòng chính sử. Để phản biện lại chính sách văn hóa thâm độc của nhà Minh, Ngô Sĩ Liên đưa truyền thuyết Hùng Vương vào chính sử sau thời kỳ Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, nhắm mục đích khẳng định lại căn cước của người Việt, bắt nguồn từ nhiều ngàn năm trước, với nền tảng vua Hùng lập quốc, độc lập ngay từ lúc con người mới tập hợp thành xã hội, với những vị vua Hùng cai trị lâu dài, không thua kém gì thuở ban đầu của lịch sử Trung Hoa.
Tuy nhiên, cho đến nay, có hai vấn đề mà sử sách vẫn chưa làm sáng tỏ về âm mưu của người Bắc phương nói chung. Thứ nhất là phong tục cưới hỏi, và thứ hai là việc trồng lúa gạo của người Việt. Cả hai vấn đề nầy đều xuất phát từ bộ sách Hậu Hán thư, viết vào thế kỷ thứ 5 bên Trung Hoa. Sách nầy nói rằng người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt phép cưới hỏi, và người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy.
Về vấn đề phép cưới hỏi, cho đến nay chưa có tài liệu cụ thể nào về phong tục cưới hỏi của người cổ Việt. Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, trước thời Triệu Nữ Vương tức trước thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên (CN), có thể người cổ Việt theo mẫu hệ.(Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, Viet Publisher, 1989, tr. 19.) Như thế phải chăng Trung Hoa muốn áp đặt chế độ phụ hệ vào xã hội cổ Việt?
Dầu xã hội cổ Việt theo mẫu hệ hay theo phụ hệ, những nhà đô hộ Trung Hoa thời cổ sử đã buộc dân Việt theo cách thức cưới hỏi của Trung Hoa, nghĩa là không phải tự do cưới hỏi như trước, mà dân Việt phải theo thủ tục hộ tịch của nhà cầm quyền Trung Hoa. Làm như thế, những nhà cai trị Trung Hoa nhắm hai mục đích: Thứ nhất kiểm soát dân số và an ninh xã hội cổ Việt. Thứ hai đánh thuế người Việt theo từng hộ. Thời xa xưa chưa có thuế thân, chỉ có thuế hộ.
Về vấn đề người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy, là một bóp méo lịch sử Việt của người Trung Hoa. Một câu hỏi được đặt ra là: người Trung Hoa thời xưa lập nghiệp ở vùng sông Hoàng (Hoàng hà), trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước hơn người Việt mà dạy người Việt?
Gần đây, những kết quả khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng trung tâm đầu tiên của nền văn minh lúa nước trên thế giới là Đông nam Á. Cũng theo các tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á là khu vực Hòa Bình, Bắc Việt. (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.) Hòa Bình nằm trong vùng uốn khúc sông Đà đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc, Phú Thọ) quận Giao Chỉ thời cổ Việt.
Trong sách Ancient China, tác giả Edward H. Schafer viết rằng: “ Thuật trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The art of cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from the despised races of the remote south.” (Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, p. 16.)
Cũng nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức Khổng Tử (551-478 TCN) “sống chủ yếu bằng lọai bánh làm bằng kê”. (nguyên văn: “Confucius have subsisted chiefly on millet cakes.”. Ngòai ra, “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và cũng đáng ngờ rằng Vương Xung, sáu thế kỷ sau cũng thế.” (nguyên văn: “Conficius never tasted tea, and it is doubtful that Wang Ch’ung, six centuries later, did either.”(Edward H. Schafer, sđd. tt. 37-38.)
Theo những tài liệu mới được phát hiện, tại Mê Linh, quận Giao Chỉ, người ta tìm thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây khoảng 2,000 năm TCN, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn (thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN), dùng cho trâu cày. (Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983, p. 35.)
Điều đó có nghĩa là dân Lạc Việt đã biết làm ruộng lúa nước và biết sử dụng điền khí trước khi người Trung Hoa xâm lăng cổ Việt. Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ đồng là nghề luyện kim chính của dân Lạc Việt, vốn nổi tiếng về trống đồng, và nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất cảng sắt xuống phía nam Trung Hoa từ năm 183 TCN.
Như thế, không phải người Trung Hoa đã khai tâm dân Việt trong việc trồng lúa nước, mà người Việt đã tự mình biết cách canh tác để sản xuất nông phẩm cho cuộc sống của chính mình. Chẳng những thế, người Trung Hoa còn học trồng lúa nước từ những người ở phương Nam, trong đó có dân Lạc Việt.
Hai câu chuyện trên đây cho thấy, ngay từ đầu, sử sách Trung Hoa cố tình cho rằng chính Trung Hoa đã khai hóa dân Việt, trong khi như Nguyễn Trãi đã viết: ”Sơn hà cương vực đã chia; phong tục bắc nam cũng khác.” (Bình Ngô đại cáo). Đó là lý do tại sao vào thế kỷ 15, sau thời Minh thuộc, truyền thuyết Hùng Vương được Ngô Sĩ Liên trình bày thành một triều đại mở đầu quốc thống của dân tôc Việt. Truyền thuyết nầy nhắm khẳng định một điều, là ngay từ thuở bình minh của lịch sử loài người, người Việt đã đứng ra hùng cứ một phương, với triều đại Hùng Vương, truyền được hơn hai ngàn năm lịch sử.
Từ đó, truyền thuyết Hùng Vương trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt, kiến tạo niềm tin tinh thần và tâm linh vững mạnh vào truyền thống cao cả và anh hùng của dân tộc, để mọi người hăng hái, hy sinh bảo vệ và xây dựng đất nước. Chính nhờ niềm tự hào dân tộc trên đây, người Việt đã đứng vững suốt mấy ngàn năm qua, vượt thóat bao nhiêu gian nan thử thách, nhất là những cuộc xâm lăng của ngọai bang.
Hiện nay, Trung Hoa Cộng Sản vẫn tiếp tục thái độ bá quyền của vua chúa Trung Hoa ngày trước, uy hiếp biên giới Bắc Việt và uy hiếp Trường Sa, hải đảo của đất nước chúng ta. Đáng lẽ phải tập trung tổng lực dân tộc để đối phó với ngoại bang theo truyền thống Phù Đổng thời Hùng Vương, nhà nước Cộng Sản Việt Nam lại quay qua đàn áp các nhà tranh đấu dân chủ trong nước, mà hình ảnh tiêu biểu nhất là hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bóp miệng tại phiên tòa ở Huế ngày 30-3- vừa qua.
Kính thưa quý vị,
Hôm nay, nhân lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, ôn lại lịch sử nước ta thời cổ đại để hiểu rõ thêm giá trị của truyền thuyết Hùng Vương, nhớ ơn công đức mở nước và dựng nước của tổ tiên, những người Việt ở hải ngọai chúng ta hãy lắng lòng nhìn về quê hương yêu dấu, cùng nhau đoàn kết, ủng hộ những nhà tranh đấu dân chủ, dân quyền ở trong nước, chống lại cường quyền cộng sản toàn trị. Hy vọng hào khí dân tộc bắt nguồn từ truyền thuyết Hùng Vương, là ngọn lửa thiêng dẫn dắt người Việt một lần nữa, chiến thắng nghịch cảnh, và xây dựng một ngày mai tươi sáng cho đất nước chúng ta.
Xin trân trọng cảm tạ quý vị đã lắng nghe, và xin kính chào quý vị.
TRẦN GIA PHỤNG
(Mississauga, 22-4-2007)
Trước khi quá muộn, hãy biết lắng nghe !
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire