Lòng dũng cảm đã cạn kiệt?
DCVOnline - RFA phỏng vấn Lưu Vũ
RFA: Mỗi năm vào những ngày cuối tháng Tư, người Việt khắp nơi thường kể cho nhau nghe câu chuyện của riêng tư của mình vào ngày mà nhiều nhà viết sử xem là một trong những ngày trọng đại nhất trong lịch sử của Việt Nam.
Cũng trong tinh thần đó, hôm nay Ban Việt Ngữ chúng tôi xin được gửi đến quý thính giả câu chuyện của một sinh viên Việt Nam, từng đi du học ở Ba Lan, bị bắt đưa về nước, và bây giờ đang sinh sống và hoạt động tại Ba Lan. Người chúng tôi muốn giới thiệu đến quý thính giả hôm nay là Ông Lê Diễn Ðức, Executive Editor của Nhật báo Online Ðàn Chim Việt (www.danchimviet.com).
Ông Lê Diễn Đức còn được nhiều người biết đến qua bút danh Lưu Vũ.
Như thường lệ, cuộc nói chuyện do phóng viên RFA Nguyễn Khanh thực hiện (ngày 28/04/2007), và chúng tôi xin gửi đến quý thính giả trong khuôn khổ Tạp Chí Câu Chuyện Thời Sự Hàng Tuần. Cũng xin thưa rằng những phát biểu của ông Lê Diễn Ðức không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ban Việt Ngữ Ðài Á Châu Tự Do.
Nguyễn Khanh: Ngày 30 tháng Tư, 32 năm trước đây, lúc đó ông ở đâu và ông đang làm gì?
Nhà tù Hoả Lò (ảnh chụp từ trên cao)Nguồn: medalofhonor.com
Lê Diễn Đức: Thưa quý anh, ngày này 32 năm trước đây, tôi đang ngồi ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
Nguyễn Khanh: Anh có thể giải thích lý do tại sao lúc đó anh đang ngồi tù, trong lúc cả nước đang đang xôn xao, một bên thì lo âu sắp thua trận, một bên đang vui mừng chờ chiến thắng?
Lê Diễn Đức: Thưa anh, trước đó mười mấy tháng, tôi đã ngồi tù ở trại giam ngoại thành Hà Nội, mà sau này tôi được biết hình như là nơi đã giam giữ các nhân vật bất đồng chính kiến như Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang, được gọi là trại giam B15 gì đó. Sau đó một thời gian, tòa án Hà Nội đưa tôi ra xét xử với tội danh "trốn ở lại nước ngoài" và tôi thụ án tại nhà giam Hoả Lò.
Ðể giải nghĩa cho anh và thính giả biết thì, trong thời gian tôi đi du học tại Ba Lan thời đó, phía Việt Nam có luật lệ rất nghiêm ngặt, cấm đủ thứ… Nói chung du học sinh chúng tôi bị quản lý rất chặt chẽ, dưới con mắt giám sát của một cán bộ do Sứ Quán cử gọi là Trưởng Ðoàn, thí dụ như cấm chúng tôi không được để tóc dài, không được mặc quần jeans ra đường, cấm không được xem phim tư bản, cấm không được đến thăm gia đình người Ba Lan, cũng như cấm không được có tình yêu mà chỉ học, học vì tổ quốc...
Khi sang Ba Lan, chúng tôi còn trẻ lắm, chỉ độ 17, 18 tuổi. Anh bảo có cái chế độ nào, có cái luật lệ nào trên thế giới cấm người thanh niên chưa vợ, gái chưa chồng yêu nhau không? Thật là một luật lệ bất nhân. Cá nhân tôi, tôi không thể vượt qua đời sống bình thường của một con người, tôi đã có một mối tình với một cô sinh viên Ba Lan học chung ở Ðại Học Tổng Hợp thành phố Wroclaw, tôi tìm cách ở lại Ba Lan, bảo vệ tình yêu chân chính của mình và vì thế mà tôi bị tòa án kết tội trốn ở lại nước ngoài. Lúc ấy bất kỳ một ai vi phạm những điều mà tôi vừa nói đều bị Sứ Quán trục xuất đưa về nước.
Nguyễn Khanh: Khi ở trong tù, khi nào thì anh nghe được tin cuộc chiến kết thúc và cảm nghĩ của anh khi nghe tin đó như ra sao?
Lê Diễn Đức: Thưa anh trong mấy ngày cuối cùng của tháng Tư năm 1975, chúng tôi đã xôn xao trong tù, bởi "Nhân Dân" là tờ báo Giám thị thỉnh thoảng vẫn cho trưởng phòng hay phó phòng giam (là những người tù được giao trách nhiệm tự quản) mượn đọc nên tù nhân chúng tôi có thể đọc ké hoặc nghe nói lại. Chúng tôi biết Sài Gòn sắp được giải phóng. Nói chung không khí rất rạo rực. Ngày 30 tháng Tư khi được nghe tin đó thì chúng tôi rất phấn khởi. Riêng bản thân tôi thì vừa vui, vừa buồn.
Nguyễn Khanh: Rất phấn khởi, nhưng lại vừa vui, vừa buồn. Ý anh muốn nói là như thế nào?
Lê Diễn Đức: Tình cảm con người mà anh, khó nói lắm!!! Tôi sinh ra trong một “gia đình cách mạng”, lớn lên được đi du học tại Ba Lan. Tôi đã là nhân chứng của chiến tranh. Thời kỳ máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, tôi đã từng tham gia đội cứu thương của thanh niên đi nhặt những xác chết bị bom xé tung ra từng mảnh; rồi làng thôn bị cháy, v.v… Dân tộc Việt Nam bất hạnh quá, bao nhiêu năm triền miên trong chiến tranh tàn khốc. Bản thân tôi, gia đình, cả dân tộc đã thoát khỏi vòng binh đao, chấm dứt cuộc chiến đầy tang thương, chết chóc, đất nước liền một cõi, thì làm sao mình không vui mừng được. Thấm chí rất hạnh phúc, rất sung sướng! Bây giờ đất nước đã có thể hồi sinh, đã có thể bắt đầu bắt tay vào công việc xây dựng. Cái vui của bản thân tôi cũng là cái vui chung của mọi người, mặc dù lúc đó tôi vẫn biết mình đang mang thân tù tội.
Nhưng mà có nỗi buồn ở trong tôi không dám nói ra, đó là với tấm lý lịch đã từng bị ở tù, tôi nghĩ rằng khi ra khỏi nhà giam Hỏa Lò, cuộc đời của tôi khó có thể tồn tại bình thường, khó có được sống cuộc sống đàng hoàng, tử tế trong chế độ cộng sản. Tôi biết như thế vì rất nhiều nạn nhân, thí dụ như của vụ Nhân Văn Giai Phẩm, họ có chính kiến bất đồng nên bị liệt vào danh sách lý lịch đen, đã phải sống một cuộc đời khổ nhục ra sao. Tôi cũng được nghe người thân trong gia đình kể lại thời Cải Cách Ruộng Ðất... Tôi thấy trước mắt mình một tương lai mờ mịt. Lúc đó tôi nghĩ rằng chắc rồi kiếp này tôi sẽ bị đưa về quê, đi cày ruộng… Cho nên trong thời gian ở tù tôi có hy vọng le lói rằng, ra khỏi tù, tôi sẽ vượt biên, bằng mọi cách phải ra đi, mình còn trẻ nên phải can đảm vươn lên, nếu không sẽ bị bị đầy đọa, chết chìm ở cái chế độ này. Tôi nghĩ như vậy, và con đường ngắn nhất như anh em trong tù nói chuyện bí mật với nhau là nên vào Nam rồi tính sau, bởi vì từ Bắc vào Nam chỉ qua con sông Hiền Lương rồi sau đó tìm cách tiếp cận vào trong, từ từ toan tính tiếp... Ðất nước thống nhất, giải phóng xong, thì như tôi vừa nói với anh, vui thật nhưng mà làm tắt lịm đi hy vọng le lói mà tôi dự tính trong đầu.
Nguyễn Khanh: Thế rồi khi nào anh đã vào Nam, và cảm nghĩ của anh khi đặt chân đến miền Nam như thế nào?
Lê Diễn Đức: Cũng có lẽ nhờ ngày 30 tháng Tư đất nước thống nhất, mà ngày mùng 2 tháng Chín năm 75 tôi được ân xá, ra tù trước thời hạn 5 tháng anh ạ. Tôi có một bà cô ruột sống ở Sài Gòn. Cô tôi vào Sài Gòn trước năm 1930. Hồi đó, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, tất cả mọi người đi Sài Gòn đều phải có giấy công lệnh - nếu là cán bộ - hoặc phải có giấy phép của chính quyền địa phương. Tôi vất vả lắm mới xoay được tờ giấy phép này để vào thăm bà cô.
Góc Nguyễn Huệ–Lê Lợi ở Sài Gòn. Nguồn: medalofhonor.com
Mặc dù đã sống ở Châu Âu, nhưng khi vào Sài Gòn tôi vẫn bị choáng ngợp, vì tối thấy khác hẳn với miền Bắc quá. Những điều tôi được nghe rằng cuộc sống ở chế độ miền Nam thế này thế kia, nhưng ngay trên chiếc xe ca chạy suốt Bắc - Nam, tôi thấy cách sinh hoạt, ăn uống của lái xe, lơ xe và người miền Nam trên đường đi có cái phong thái thoải mái, tự nhiên rất Châu Âu. Cảm giác đầu tiên của tôi khi vào đến Sài Gòn là sự ngạc nhiên khi thấy khá nhiều nhà cao tầng, xe đi lại trên đường phố như mắc cửi, nhất là xe gắn máy, một điều rất hiếm hoi đối với miền Bắc. Lúc bấy giờ ở ngoài Bắc phương tiện đi lại chính của chúng tôi là xe đạp. Nhìn thấy xe gắn máy chạy rất nhiều như thế, tôi nghĩ rằng, chắc chắn cuộc sống của người miền Nam sung sướng hơn, phong phú và thịnh vượng hơn ở miền Bắc.
Sáng hôm sau, tôi mượn chiếc xe đạp mini của con cháu nhà bà cô, đi lên trung tâm và ghé vào tiệm cà phê (không biết bây giờ có còn không) MiniRex nằm giữa trung tâm thành phố Sài Gòn. Khi tôi ngồi xuống bàn thì thấy người phục vụ mặc áo trắng, thắt nơ, nói câu: “Thưa ông, ông dùng chi ạ!”… Tự nhiên tôi cảm thấy bàng hoàng và lúng túng! Trời ơi! Lâu lắm rồi tôi mới được một người gọi mình bằng “Ông”, giống như hồi mình vẫn được gọi thường ngày ở Ba Lan. Sau giây phút đó và những ngày tiếp theo đi thăm quan ở thành phố, vào thương xá Tam Ða, vào thương xá Tax, tôi cảm thấy ngay rằng, mình phải vào Nam sống, nó hợp với con người của mình, không thể sống ở Bắc được. Người miền Nam có cuộc sống khá sung túc, tính tình rất chân thật, ít để ý đến nhau. Với một tấm lý lịch đen như của tôi thì tốt nhất, kiểu nào thì kiểu, phải tìm cho mình nơi nào khả dĩ hơn, dễ thở hơn. Cái hy vọng le lói của tôi trong nhà tù đã bị dập tắt thì được khơi lại và ngay sau đó, tôi tìm mọi cách để vào Nam.
Nguyễn Khanh: Dường như anh muốn nói với chúng tôi là anh nhìn thấy danh từ “thống nhất” đất nước chỉ là thống nhất trên danh nghĩa chứ không phải trên thực tế. Có phải anh muốn trình bầy như vậy hay không?
Lê Diễn Đức: Tôi muốn nói về sự thống nhất địa lý hơn anh ạ. Cho đến bây giờ, cả tôi và anh chúng ta đều làm trong ngành truyền thông, có nhiều mối quan hệ với anh em bạn bè tứ xứ, từ Bắc sang Nam, đủ mọi thành phần xã hội, thì chắc anh cũng chia sẻ với tôi là lòng người hai miền Nam Bắc vẫn còn đầy những dị nghị, đầy những mối hận thù chưa được giải quyết, thiếu lòng bao dung, thiếu sự độ lượng… Chính vì cái thể chế hiện nay không có được điều cơ bản nhất cho phép con người được nói, được trình bày, được giải tỏa, thì tôi nghĩ, cái bế tắc này nó vẫn triền miên.
Ðúng, thống nhất đất nước rồi nhưng lòng người chưa thống nhất anh ạ. Cho đến giờ phút này, anh cứ xem tất cả những diễn đàn ở hải ngoại, hoặc những cuộc biểu tình, tranh đấu của những người Việt chống đối những đoàn của chính phủ Việt Nam đi sang Mỹ hoặc sang các nước tư bản, thì chúng ta thấy rõ, không cần nói chiều.
Nguyễn Khanh: Khi cuộc chiến kết thúc hồi 1975 chính phủ miền Bắc có nói là từ bây giờ chúng ta có tự do, dân chủ và độc lập ở trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo anh những điều đó bây giờ đã có hay chưa?
Lê Diễn Đức: Nếu chúng ta mà nghe báo chí hay các tuyên bố của chính quyền Việt Nam thì có ngay cảm nghĩ có lẽ Việt Nam đang là thiên đường anh ạ!!! Chúng ta không nên tự lừa dối nhau làm gì. Tất cả những điều họ nói đều là sáo rỗng. Việt Nam chỉ có chủ quyền về mặt lãnh thổ, mà chưa chắc đã hoàn toàn có chủ quyền một cách độc lập. Chúng ta biết ảnh hưởng của Trung Quốc như thế nào khi Việt Nam ký hiệp định nhượng đất, nhượng biển… Rõ ràng, tập đoàn lãnh đạo Ðảng Cộng Sản ở Hà Nội vẫn chịu sức ép rất lớn của thế lực lãnh đạo từ Bắc Kinh. Ðó là tôi nói về chủ quyền lãnh thổ.
Còn dân chủ, tự do? Làm gì có hả anh? Chúng ta biết rằng, để định nghĩa một nước có tự do, dân chủ hay không, trước hết chúng ta phải biết các quyền cơ bản nhất của con người có được tôn trọng hay không. Mà điều quan trọng nhất là quyền được nói, tức là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ở Việt Nam chúng ta không có một tờ báo tư nhân, không có một đài truyền hình, đài phát thanh tư nhân nào cả. Tôi chưa nói là những người có ý kiến bất đồng với quan điểm của nhà nước, chỉ gửi vài ba e-mail trên mạng cũng đã bị bắt, bị đọa đầy, giống như trường hợp của Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Ðài, Lê Thị Công Nhân, hay là anh Nguyễn Vũ Bình còn ngồi tù… Không thể kể xiết được.
Nguyễn Khanh: Nhưng thưa với anh là nếu có dịp nói chuyện với những người trong nước, anh thấy rõ ràng người dân Việt Nam, dường như, hài lòng với cuộc sống của họ hiện tại. Ðó cũng là điều chính phủ Việt Nam thường hay trình bày cho thế giới biết. Anh nghĩ gì về điều này?
Lê Diễn Đức: Tôi quay lại Ba Lan từ năm 1989, và gia đình tôi định cư ở đây luôn. Trước khi tham gia báo Ðàn Chim Việt, tôi cũng sinh hoạt bình thường với cộng đồng, anh em đồng hương. Từ năm 1994, tình hình “đổi mới” đã cho phép tôi về Việt Nam nhiều lần không bị phiền toái gì. Cho đến khi tôi ra công khai là Tổng biên tập báo Đàn Chim Việt thì không còn đường về nữa. Thời gian ở Việt Nam, tôi có dịp tiếp xúc với bạn bè, anh em, người trong gia đình, cũng như quan chức cộng sản, kể cả những người bạn cũ của tôi hiện đang có những chức vụ lớn ở trong nước…
Thực ra mà nói, không thể nào giấu được, trong lòng bản thân họ, họ cũng rất chán chế độ Việt Nam hiện nay, một chế độ tham nhũng tràn làn, giá trị đạo đức của xã hội bị suy đồi, nền giáo dục xuống cấp thảm hại... Họ biết những điều đó. Có lần một người bạn học của tôi là người có quyền có chức nói: “Ðức à, cả nước đang bị lũ, chúng tao không sống với lũ thì chỉ có chết. Do vậy, đành chấp nhận phải sống với lũ!”.
Thành ra tôi rất tâm đắc với nhà văn Dương Thu Hương, bà đã viết trong một bài rằng, hình như lòng dũng cảm của người Việt Nam chúng ta giống như số tiền để trong bóp, đã ăn xài xả láng qua chiến tranh rồi, nên bây giờ cạn kiệt không còn nữa…
Chính nhờ công cuộc “đổi mới” trong 20 năm qua, mà từ cái cảnh ăn cơm độn bo bo giờ được ăn gạo trắng; đi bộ, đi xe đạp được thay bằng xe gắn máy, ở nhà tranh vách đất bây giờ được ở nhà gạch v.v…, nên nhiều người Việt trong nước bây giờ cảm thấy hài lòng (?). Rất nhiều người, ngay cả trong cộng đồng ở Ba Lan này, họ vẫn cứ tưởng đó là công lao của Ðảng, của Bác!
Nhưng sự thật là họ thiếu thông tin, nên rất ngô nghê. Lẽ ra, nếu không có Ðảng, không có Bác, cuộc sống của nhân dân Việt Nam có khi còn thịnh vượng hơn. Ðảng mới chỉ đổi mới 20 năm nay thôi, hòa bình thì đã 32 năm rồi, tại sao Ðảng không đổi mới trước đi để cho đất nước bây giờ ít nhất phải bằng các nước láng giềng như Thái Lan, Philippines, hay là Malaysia? Chính Ðảng đã phạm quá nhiều sai lầm. Những sai lầm đó đã đưa kinh tế đất nước đến bờ vực thẳm. Lúc ấy Ðảng mới hốt hoảng để làm chuyện “đổi mới”, rồi mức sống mới được nâng lên. Con người khi có miếng ăn ấm bụng thì thường tự mãn, tự bằng lòng với mình...
Họ sợ tuột mất cái đang có vì sau bao nhiêu năm chiến tranh thiếu ăn, thiếu mặc, họ không muốn cơm trong nồi bị mất tiếp nếu làm điều gì đó phật ý chính quyền. Ðây là cái điểm yếu chung của đại đa số người Việt Nam.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã tận dụng được sự tự mãn, tự bằng lòng ấy. Hơn nữa theo tôi nghĩ, người dân trong nước không có ý chí hãnh tiến, đòi thay đổi để vươn lên hơn nữa, chính vì họ thiếu thông tin, thiếu các thực tế từ các nước cộng sản cũ như là Cộng Hòa Czech, Slovakia hay Ba Lan, là những nước đã từ bỏ chế độ cộng sản và phát triển như thế nào. Nhân dân các nước này được nhiều hơn cái mức từ bo bo lên cơm trắng, từ xe đạp lên xe máy, anh ạ…
Nguyễn Khanh: Xin cám ơn anh về cuộc nói chuyện thú vị hôm nay.
DCVOnline: Bạn đọc có thể nghe toàn cuộc phỏng vấn trên Đài Á ChâuTự Do - RFA). DCVOnline biên tập lại từ văn nói qua văn viết.
dcv
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire