1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] - 7.[Thu doan cs d/v Ton giao] (10.H_mt) (11.H_qh)

jeudi 3 mai 2007

Hãy nhắm trúng tâm điểm (I) - MV

Hãy nhắm trúng tâm điểm (I)

Minh Võ

Tháng 5 là tháng Cộng Sản Việt Nam mừng 5 ngày lễ lớn: Quốc Tế Lao Động, ngày của giai cấp công nhân (1/5) (*), Ngày sinh của Các Mác (5/5/1818), kỷ niệm chiến thắng Điện Biên (7/5/54), ngày mặt trận Việt Minh ra đời (19/5/1941), và ngày sinh của “bác Hồ” (19/5/1890).

Năm nay tháng 5, đối với Cộng sản Việt Nam, còn có thêm một ngày hội lớn. Đó là ngày 20/5/07, “ngày toàn dân đi bầu quốc hội” (!)

Bài này được viết vào đúng lúc Cộng Sản Việt Nam đang chuẩn bị ráo riết cho cuộc bầu cử cái gọi là Quốc Hội đó. Cũng nằm trong chương trình chuẩn bị đó, ngày 30/3/2007, họ đưa ra xử và kết án linh mục Nguyễn Văn Lý (8 năm tù) và những nhà đấu tranh cho Dân Chủ Tự Do trong Khối 8406, vì tổ chức này cùng với linh mục Lý hô hào tẩy chay bầu cử kiểu “đảng cử dân bầu”.

Nhân dịp này, để mở đầu cho bài viết, chúng tôi xin nhắc lại một câu hỏi đã nhiều lần được nêu lên: Tại sao đã biết bầu cử theo kiểu đảng/cử/dân/bầu là phi dân chủ, là trò hề lố bịch trơ trẽn mà nhân dân ta cứ “ngoan ngoãn” tới phòng phiếu suốt sáu chục năm qua, trải qua 11 lần bầu cử?


Huyền thoại Hồ Chí Minh, “cha già dân tộc”
Nguồn: english.people.com.cn
--------------------------------------------------------------------------------

Có nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất mà chúng tôi muốn nói đến ở đây là huyền thoại Hồ Chí Minh, “cha già dân tộc”, “anh hùng dân tộc”. Hồ Chí Minh là người được Cộng Sản Việt Nam cùng với bộ máy tuyên truyền đồ sộ hiện đại của Công sản Quốc Tế suốt trong nhiều thập niên đã đề cao là người có công đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất cho tổ quốc Việt Nam. Rồi, vì ảnh hưởng của luận điệu tuyên truyền ấy, một phần lớn dư luận thế giới đã nói theo, viết theo. Ảnh hưởng đó thậm chí còn khiến ngay một số trí thức phe quốc gia chống Cộng cũng lập lại rằng, “nói gì thì nói cái công giành Độc Lập của ông Hồ là lớn lắm”. (1) Đó là chưa kể nhiều nhà đấu tranh cho Dân Chủ Tự Do, xuất thân từ hàng ngũ những cựu cán bộ cộng sản phản tỉnh, phản kháng (2) vẫn ôm lấy thần tượng, huyền thoại Hồ Chí Minh để chống chế độ mà ông ta đã tạo dựng suốt trong nhiều thập kỷ.(!)

Về huyền thoại Hồ Chí Minh nói chung, thì đã có nhiều người viết rồi. Trong đó phải kể đến các tác giả Trần Gia Phụng và Lữ Phương, tuy rằng lập trường.của hai người hoàn toàn khác nhau. Nhưng theo tôi, chúng ta không nên chú trọng đến những cái râu ria bề ngoài, dễ khiến đi lạc vào một khu rừng rậm, mà chỉ nên đánh thẳng vào tâm điểm, là huyền thoại Cha Già Dân Tộc.

Chính cái huyền thoại chủ yếu này đã biến con người Hồ Chí Minh thành một thần tượng “linh thiêng” của chế độ. Trong những lúc nguy nan nhất, như kể từ khi phải đối phó với phong trào đòi Tự Do Dân Chủ bùng phát với Khối 8406 chẳng hạn, Cộng đảng đã kêu gọi toàn đảng, toàn dân hãy học tập “đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh” (2bis). Họ chỉ sợ lỡ mà thần tượng sụp đổ thì chế độ cũng tan tành.

Chính vì thế mà các đảng phái quốc gia, các phong trào, tổ chức đấu tranh cho dân chủ tự do càng phải đặt trọng tâm vào việc phá vỡ huyền thoại này, đánh đổ thần tượng này. Xin nhắc lại, huyền thoại anh hùng dân tộc, thần tượng “cha già dân tộc”.

Nhưng việc đó khó đến đâu? Có thể làm được không? Và làm như thế nào?

Trước hết, việc phá vỡ huyền thoại này là việc vô cùng khó khăn. Thứ nhất, vì chính ông Hồ và những phụ tá thân cận nhất của ông ta đều là những chuyên gia lão luyện về khoa tuyên truyền đã tác tạo nên thần tượng đó (3). Nghiên cứu về tính chất, nội dung và kỹ thuật tuyên truyền, ai cũng rõ thần tượng là một trong ba yếu tố quan trọng hàng đầu của tuyên truyền (chính nghĩa, thần tượng và biểu tượng).

Thứ đến, các chính khách và cán bộ phe Quốc Gia, ban đầu bị Cộng Sản lừa, mà lại không nắm vững và/hoặc không coi trọng kỹ thuật tuyên truyền như các cán bộ Cộng Sản, nên đã không nhìn thấy sớm âm mưu tạo thần tượng của Cộng Sản để kịp thời phản bác và lật đổ. Trong khi đó thì hàng ngày phe Cộng Sản không ngừng củng cố, tô vẽ thần tuợng ấy.

Kẻ thiết kế và đúc khuôn đầu tiên là chính ông Hồ, như sẽ nói sau. Kế đó là những phụ tá hàng đầu của ông ta là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, tay nàơ cũng viết tiểu sử đề cao, thần thánh hóa ông Hồ. Thậm chí Võ Nguyên Giáp có đến 5 cuốn loại đó.

Thế rồi từ những cuốn tiểu sử đó mà các cán bộ cấp dưới cỡ Hồng Hà không ngừng nhắc lại, tô vẽ thêm, các nhà báo và sử gia ngoại quốc, kể cả Pháp, Mỹ lại cứ theo đó nói theo, viết theo như những phát kiến độc đáo của mình.

Nếu vào thư viện ta sẽ thấy gần trăm tác phẩm Anh, Pháp ... ca ngợi ông Hồ là nhà ái quốc, là anh hùng dân tộc. Cụm từ “Cha Già Dân Tộc” do ông Hồ sáng chế cũng được nhắc lại một cách tự hào.

Trong số tác phẩm ngoại quốc ca tụng họ Hồ mà nếu trưng dẫn ở đây sẽ quá dài, (4) chúng tôi chỉ xin trích dẫn mấy câu trong hai cuốn từ điển Bách Khoa Anh và Mỹ là những tự điển mà sinh viên, giáo sư vẫn thường tra cứu hàng ngày. Trong số các sinh viên và giáo sư ấy, càng ngày càng có thêm nhiều con cháu chúng ta.

“Lãnh đạo phong trào ái quốc Việt Nam gần ba thập kỷ, ông Hồ là một trong những người xướng xuất phong trào chống thực dân tại Á Châu sau thế chiến I I.” (5)

“Hồ Chí Minh được nhiều người tôn kính như một nhà ái quốc và một nhà giải phóng”
(6)

Các tác giả từ điển Bách Khoa cũng như các sử gia ngoại quốc, khi ca ngợi ông Hồ là nhà ái quốc, là nhà giải phóng chống thực dân, dĩ nhiên họ cũng phải có bằng chứng, lấy từ những công trình nghiên cứu lịch sử chiền tranh Việt Nam. Mà đã rõ, lịch sử được viết bởi kẻ thắng. Cuối cùng phe ông Hồ đã thắng. Cho nên họ viết sử theo ý họ. Điều này dễ hiểu. Nhưng cũng không thiếu gì sử gia Pháp, Mỹ, và cả sử gia người Việt Quốc Gia cũng lại căn cứ vào sử của Cộng sản Việt Nam, và của các sử gia ngoại quốc thiên cộng để viết.

Vậy “lịch sử” chiến tranh Việt Nam đã ghi nhận như thế nào về vai trò giải phóng của ông Hồ? Về công trạng của ông Hồ?

Nếu chỉ nhìn vào các sự kiện thuần túy lịch sử, không đếm xỉa đến nguồn gốc, tính chất phức tạp của cuộc chiến Việt Nam và đặt nó vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ tòan bộ, toàn cầu, toàn diện của Cộng sản thế giới, thì người ta thường chỉ thấy những điều sau đây:

Ông Hồ và đảng Cộng Sản của ông đã làm cuộc cách mạng Tháng Tám (1945) thành công. Ông Hồ là người đã đọc bản tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. Ông và đồ đệ ruột của ông đã tổ chức bầu quốc hội đầu tiên (đầu năm 1946) trong đó có sự tham gia của các đảng phái quốc gia (70 ghế biếu không), chứng tỏ ông được quốc dân tôn làm lãnh tụ, chủ tịch nước. Vì thế cộng sản thường tôn ông là người khai sáng ra nước Việt Nam mới. Từ đó mới hợp thức hóa danh xưng “cha già dân tộc”, chẳng khác gì môt thứ “quốc phụ”, như (Ataturk) Mustapha Kemal (1881-1938) của nước Thổ mới, đầu thế kỷ trước.

Cũng căn cứ vào các sự kiện thuần túy lịch sử thì chính ông Hồ cho lệnh phát khởi cuộc kháng chiến chống Pháp từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, khiến Pháp phải rút lui. Như vậy không thể bảo ông Hồ không có công trong việc thu hồi nền độc lập cho Việt Nam.

Những người phủ nhận công này có thể dựa vào việc Nhật Bản đã trao độc lập từ người Pháp trả cho chính phủ Nam Triều, lúc ấy dưới quyền vua Bảo Đại, vì ngày 11/3/45 (hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương) vua Bảo Đại đã tuyên cáo hủy bỏ các hiệp ước (đặt Việt Nam dưới sự cai trị và đô hộ của người Pháp) ký với Pháp trước rồi. Nhưng các người Cộng Sản vẫn thường nói rằng độc lập từ tay người Nhật, không tốn một viên đạn, là thứ độc lập trong vòng cương tỏa của Nhật, không có gì bảo đảm. Vả lại chỉ mấy tháng sau chính vua Bảo Đại đã “tự ý” trao quyền lại cho Việt Minh do ông Hồ lãnh đạo, với câu nói lịch sử: “Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước bị trị”. Như vậy ông Hồ chẳng những có công dành độc lập mà còn có công phá bỏ chế độ phong kiến nữa.

Còn về việc thống nhất đất nước, không những chỉ có tài liệu phía Cộng kể công. Cả các sử gia và các nhà lãnh đạo Mỹ cũng nhận Hoa Kỳ thất trận. Chúng ta không thể nói khác được. Những tác phẩm chiến sử của nhiều nhân vât quốc gia trong Việt Nam Cộng Hòa trước, mô tả những chiến tích oai hùng, can trường, gan dạ đáng thán phục của quân sĩ miền Nam, hay mô tả tác phong đáng lấy làm gương sáng về tài chỉ huy và đức độ của nhìều tướng lãnh VNCH, chỉ để an ủi con cháu chúng ta rằng “thua nhưng không hèn”. Tuy nhiên những tác phẩm ấy không đổi thua thành thắng được. Trừ phi, vâng, trừ phi, chúng ta đánh đổ được thần tượng Hồ Chí Minh và giải thể cái chế độ hiện nay trong một thời gian vắn, trước khi thế hệ chúng ta không còn ở trên đời này. Bằng không sẽ không tránh được cảnh bị con cháu các thế hệ tương lai chê cười, oán trách, sao cha ông chúng lại cùng với quân Pháp, quân Mỹ chống lại đạo quân giải phóng của Hồ Chí Minh và đảng cộng sảnVN, khiến tiến trình giành độc lập và thống nhất tổ quốc bị chậm lại và tốn thêm xương máu.

Nếu chỉ đọc tài liệu cộng sản và của các sử gia ngoại quốc, viết theo cộng sản, thì quả tình hầu như không thể nào đả phá được thần tượng yêu nước Hồ Chí Minh. Nhưng nếu hiểu rõ lý thuyết cộng sản, chủ trương đường lối và nhất là chiến lược sách lược đấu tranh của Lênin thì có thể chứng minh ngược lại một cách dễ dàng. Cái khó là ở chỗ làm thế nào để cho quảng đại quần chúng Việt Nam, thường ít học, hiểu được những vấn đề phức tạp về lý thuyết và chiến lược, sách lược. Vì vậy có một số người chủ trương, không nên đánh thẳng vào thần tượng Hồ Chí Minh trước, mà hãy dùng chính thần tượng Hồ Chí Minh để đánh đổ chế độ. (Nghĩa là dùng những lời nói giả dối, đạo đức giả của Hồ Chí Minh “hay gương sáng bác Hồ” mà cho đến nay chẳng những cán bộ cộng sản mà đại đa số nhân dân trẻ đều thuộc nằm lòng). Và sau khi chế độ đã đổ thì đương nhiên thần tượng HCM cũng sẽ nhào theo.

Chúng tôi không tán thành phương pháp này. Làm vậy chẳng khác gì đầu hàng trước khi giao chiến. Chúng tôi nghĩ chỉ có đánh đổ thần tượng HCM, phá vỡ huyền thoại “cha già dân tộc HCM” thì mới sớm giải thể được chế độ hiện nay. Huyền thoại này còn thì Cộng đảng còn lý do nắm quyền độc tôn. Nhân dân sẽ dễ bị họ thuyết phục rằng: ông Hồ và đảng cộng sản do ông thành lập và lãnh đạo trong chiến tranh, đi đến chiến thắng hai cường quốc lớn, thì ngày nay đảng này xứng đáng và có quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước. “Được làm vua, thua làm giặc”. Theo đúng tục ngữ đó, người cộng sản tự cho mình là vua. Chế độ hiện nay chẳng khác gì, mà còn tệ hơn, một chê độ quân chủ chuyên chế thời phong kiến. Và họ bảo “toàn dân” chấp nhận chế độ ấy.

Bằng chứng là qua 11 lần bầu cử “Quốc Hội của Đảng”, nhân dân vẫn “ngoan ngoãn” đi bầu cho đảng. Thực tế đó được Cộng đảng dùng để chứng minh với nhân dân và các chính phủ dân chủ trên thế giới: Đấy nền “chuyên chính vô sản, triệu lần dân chủ hơn các chế độ Tây Phương” ở Việt Nam được toàn dân chấp nhận qua các cuộc bầu cử “tự do”. Đó là một hình thức trưng cầu dân ý gián tiếp. Vì vậy duy trì và củng cố nền chuyên chính vô sản là hợp ý dân. Xin qúy vị đừng xen vào nội bộ của chúng tôi.

Thực tế về mối bang giao hiện nay giữa Hoa Kỳ và một số quốc gia dân chủ với nhà cầm quyèn cộng sản cũng như những thắng lợi mà họ thu lượm được trong các cuộc trao đổi về kinh tế, thương mại v.v... chứng tỏ rằng các nước tin vào lập luận đó, vì thực ra họ vẫn bị ảnh hưởng của thần tượng cha già dân tộc chi phối từ nhiều thập niên trước.

Sở dĩ cử tri “ngoan ngoãn” đi bầu cho cái quốc hội của đảng đó, để gián tiếp nói lời chấp nhận nền độc tài đảng trị, là vì họ được nhồi nhét quanh năm suốt tháng rằng ông Hồ và đảng cộng sản VN có công rất lớn với quốc dân. Công giành độc lập và thống nhất đất nước! Trong khi tiếng nói và các công trình nghiên cứu của phe ta lại quá yếu ớt và bị ngăn chặn, hầu như không tới tai nhân dân trong nước.

Chúng tôi còn nghĩ sở dĩ Việt Nam Cộng Hoà đã thua, và cả siêu cường Mỹ cũng đã thua cũng vì huyền thoại Cha Già Dân Tộc này. Phong trào phản chiến ở miền Nam một thời, phong trào phản chiến rầm rộ sôi động tại Mỹ vào giữa thập niên 60 kéo dài đến 1975, thế kỷ truớc đều bắt nguồn từ huyền thoại này. Vì theo lý luận rất logic, ông Hồ đã được toàn dân tôn là cha già dân tộc, được toàn dân tin cậy, ủy thác cho lãnh đạo cuộc kháng chiến, thì cuộc kháng chiến đó là cuộc kháng chiến của một dân tộc tự vệ chống ngoại xâm. Nó có chính nghĩa. Bất cứ cuộc chiến nào chống lại một dân tộc do các lực lượng yêu nước lãnh đạo, đều phi nghĩa.

Vì vậy cách nay hơn ba năm chúng tôi đã có bài “Xin Đừng Oán Trách Nàng” để gọi là “bào chữa” cho những văn nghệ sĩ và nhân dân phản chiến, chống chiến tranh của Mỹ nhắm vào Việt Nam. Trong đó có nêu đích danh cô đào Jane Fonda và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn... và cả nghị sĩ John Kerry (lúc ấy đang chuẩn bị tranh cử chức Tổng thống Mỹ). Trong bài đó chúng tôi đã cực lực lên án và phản bác lập luận của những nhà báo thiên tả, và những sử gia thiên cộng đã mô tả ông Hồ là nhà ái quốc, nhắc lại lập luận của Cộng Sản một cách vô trách nhiệm. Trong số những nhà báo dược nêu tên có những tên tuổi với những giải thưởng báo chí nổi danh như Neil Sheehan và David Halberstam... Những nhà báo ấy đáng kêt tội hơn những tài tử, nghệ sĩ hay cựu chiền binh nhiều. Chẳng những Tổng Thống Nixon sau này (1985, với cuốn No More Vietnams), mà cả Tổng Thống Diệm khi còn sống (1963) đã nói trước, nếu ta thua là vì những nhà báo loại đó. (Ít nhất có khoa học gia Hà Vĩnh Phương và sử gia Stanley Karnow đã nói về lời tiên tri này)

Lý luận của tôi rất đơn giản: Ông Hồ đã là anh hùng dân tộc, cha già dân tộc, là nhà ái quốc và nhà giải phóng dân tộc, thì đem quân chống lại ông ta là phi nghĩa. Phản chiến mới là chính đáng.

Chính vì phong trào phản chiến mà Mỹ đã thua. Nó làm tê liệt mọi sức phấn đấu của một cường quốc nguyên tử. Trong tình hình đó, không chính quyền nào có can đảm đi ngược lại một phong trào rộng lớn ảnh hưởng dư luận toàn thế giới như vậy. Vì vậy bom nguyên tử cũng thành vô dụng. Nhắc lại mấy câu vè “Nực cười châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu chết ai dè xe nghiêng” khiến nhiều người tự ái phẫn nộ. Nhưng kết quả đáng tiếc lại đúng là như vậy.

Với chiến thắng ngoạn mục đó, thần tượng Hồ Chí Minh càng được củng cố, bồi đắp thêm. Cho đến nay thì đã có nhiều ngôi đền thờ Hồ Chí Minh như một Bồ Tát. Đã có những ngôi chùa đưa tượng ông ta đặt ở chính điện, trước cả tượng Đức Phật.

Tất cả các sách giáo khoa đều thi nhau ca tụng công đức, tài ba của ông Hồ, khiến quá nửa dân số Việt Nam ngày nay (sinh ra khoảng trước, sau 1975) hàng ngày học tập qua những sách giáo khoa đó thường coi ông Hồ như vị thánh, vị “đại anh hùng dân tộc”. Ông Lữ Phương, tự cho mình là phản tỉnh, vẫn còn gọi ông Hồ như vậy cơ mà.

Trong tình huống ấy, nhất thiết phải phá vỡ huyền thoại, đánh sập thần tượng Hồ Chí Minh “cha già dân tộc”.

Nếu đa số nhân dân trong nước và phần lớn dư luận quốc tế đều tin như đinh đóng cột rằng ông Hồ là anh hùng dân tộc, có công đánh thắng hai cường quốc để giành độc lập và thống nhất cho tổ quốc Việt Nam, thì tất cả những cố gắng để chứng minh ông Hồ có nhiều vợ, có con rơi; hay ông Hồ có toan tính làm tay sai cho thực dân Pháp khi nộp đơn ngày 15/9/1911 xin Pháp cho vào học trường thuộc địa, với đầy đủ thủ bút, chữ ký của Paul Nguyễn Tất Thành; hay tố cáo ông ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu người trong Cải Cách Ruộng Đất, tổng công kích Tết Mậu Thân, và nhiều cuộc đàn áp đẫm máu khác v..v..., hay về tội ông bán đứng nhà cách mạng Phan Bội Châu, và cả bao nhiêu tội ác khác do chiến tranh gây ra, đều sẽ không đi đến đâu. Người dân đã bị nhồi sọ, và dư luận thế giới sẽ lý luận rằng: Ông Hồ đã là “cha già dân tộc, đã có “công cực lớn”, đã được toàn dân tôn thờ như một vị Bố Tát, thì những lời tố cáo vụn vặt vừa kể chỉ là vu khống, do những kẻ bại trận, hận thù viết ra.

Hoặc giả có người không quá khích đến thế thì cũng nghi ngờ, cho rằng những bằng chứng đưa ra để tố cáo ông Hồ không đứng vững.

Thậm chí có ngưới còn bào chữa cho ông Hồ: có vợ có con rơi thì đã sao. Các vua chúa thời phong kiến có hàng trăm, thậm chí cả chục ngàn cung phi, các ông quốc trưởng trên thế giới, cụ thể là gần đây cựu Tổng Thống Mitterand của Pháp, cựu Tổng Thống Bill Clinton của Mỹ cũng bê bối chuyện ngoại tình một cách lộ liễu có sao đâu. Còn như nộp đơn xin học trường thuộc địa của Pháp đâu nhất thiết phải chỉ vì mục đích phục vụ nước Pháp. Học cái hay của kẻ thù để sau này lập chí lớn chống lại kẻ thù hầu giải phóng dân tộc thì có gì đáng trách? Còn những mưu mô xảo quyệt trong ngoại giao, trong liên hệ với các đảng đối lập, thậm chí những vụ chém giết, đấu tố, nếu vì mục đích chiến thắng kẻ thù, giành đọc lập, thì đều có thể tự bào chữa là tại chiến tranh, hay vì mục đích cao cả giành độc lập. (Cộng sản vẫn thường chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện).

Thậm chí cộng sảns còn có thể nói ngược lại là vì phe “ngụy” phe “Việt Gian” làm tay sai cho thực dân, đế quốc chống lại nhân dân do “nhà ái quốc” Hồ Chí Minh lãnh đạo, cho nên mới làm cho hàng triệu người chết như vậy. Chứ nếu thực dân đừng ngoan cố, đế quốc đừng xâm lăng, “bọn Việt gian” đừng cấu kết với thực dân, đế quốc, thì đâu dân và lính hai bên có phải chềt nhiều đến thế v.v....

Không phải chúng tôi tưởng tượng ra những lý luận trên. Chính nhiều tác giả cộng sản và cả phi cộng sản đã từng bào chữa cho ông Hồ như vậy.

Trái lại những tác giả người Việt Hải Ngoại, khi nhắm đánh đổ thần tượng Hồ Chí Minh thường tố cáo ông ta và đảng cộng sản làm tay sai cho Liên Xô hay Trung Quốc. Lập luận đó có thể dễ được chấp nhận bởi những nạn nhân của cộng sản, những chính khách và tướng sĩ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam trước đây. Nhưng đối với những thành phần này, không cần phải đánh đổ thần tượng hay huyền thoại Hồ Chí Minh. Mục đích phải nhắm vào đảng viên cộng sản và nhân dân trong nước, hoặc vào nhân dân thế giới, nhất là các nhà báo, sử gia quốc tế. Mà đối với những đối tượng sau này thì lập luận cho rằng ông Hồ làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, không có tính thuyết phục, khi mà họ thấy rõ ràng những thực tại như sau:

Cho đến 1955, thời đệ nhất Cộng Hòa, tại Saigon vẫn còn có dinh Norodom trước kia là phủ toàn quyền Đông Dương, phủ cao ủy Pháp, tổng hành dinh của chế độ thực dân, và ngay cả sau khi Pháp đã trao trả độc lập cho chính quyền Bảo Đại, cái dinh đó vẫn còn là bìểu hiệu của sự hiện diện của Pháp chi phối mọi hoạt động của chính quyền Bảo Đại. Các tên đường tại thủ đô Saigon và các thành phố lớn đều mang tên danh nhân Pháp. Quân đội viễn chinh Pháp vẫn còn nhan nhản trên lãnh thổ Việt Nam. Những trận đánh lớn chống Việt Minh Cộng Sản đều do các danh tướng Pháp chỉ huy. Điển hình và rõ ràng nhất là trận Điện Biên Phủ. Số sĩ quan Việt Nam tham gia chống Việt Minh cộng sản tại đây rất ít, trong số đó có đại úy Nguyễn Văn Phú, sau này là tướng tư lệnh vùng hai chiến thuật đã tuẫn tiết khi miền Nam thất thủ. Còn lại tuyệt đại đa số là tướng lãnh (De Castries), sĩ quan và binh lính Pháp. Còn phía Việt Minh Cộng Sản hầu hết là tướng lãnh (Võ Nguyên Giáp) và sĩ quan, binh lính Việt Nam. Hai khuôn mặt Trung quốc thường được nhắc tới bên cạnh Võ Nguyên Giáp là hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh chỉ đống vai “cố vấn” (ít là bề ngoài, một cách công khai), vì dưới quyền họ không thấy có sự hiện diện của những đơn vị tác chiến Trung Cộng.

Tại miền Bắc trong thời gian ấy cũng không có phủ toàn quyền, bộ tư lệnh quân sự của Liên Xô hay Trung Quốc. Các tên đường tại thủ đô Hà Nội hầu hết mang tên Việt Nam.

Chúng ta hãy đặt mình vào địa vị của người ngoại cuộc. Nhìn vào hai thực trạng ở hai miền Nam, Bắc lúc ấy, lập luận cho rằng Hà Nội lệ thuộc vào ngoại bang hơn Saigon không đứng vững.

Vì vậy nếu chỉ nhìn sự kiện lịch sử mà đánh giá, thì chắc chắn không đánh đổ được thần tượng hay huyền thoại Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, hay “cha già dân tộc”. Vì những sự kiện ấy xác nhận ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam có công đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập.


Hồ Chí Minh, “kẻ chiến thắng”
Nguồn: timeinc.net
--------------------------------------------------------------------------------

Về công lao thống nhất Tổ Quốc cũng tương tự như vậy. Nếu chỉ căn cứ vào những sự kiện thuần túy lịch sử, ngưòi ngoài sẽ thấy: Liền ngay sau khi mọi nền tảng pháp lý của Đệ Nhất Cộng Hòa // hiến pháp, quốc hội.../ sụp đổ cùng với cái chết của vị tổng thống đầu tiên, Hà Nội đã lấy nghị quyết số 9 tháng 12 năm 1963 cấp tốc đưa thêm cán binh vào Nam. Tình hình miền Nam càng ngày càng tồi tệ, bắt buộc Mỹ phải đổ quân tác chiến ồ ạt vào. Bắt đầu bằng 2 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến, cộng với Xe Tăng, Trọng Pháo (8/3/1965). Với một chính quyền tạm bợ, không có cơ sở pháp lý như chính phủ Phan Huy Quát lúc ấy bị coi như chính phủ bù nhìn, vì làm ngơ, hay bất lực, để quân ngoại quốc tự tiện tiến vào lãnh thổ của mình không do một lời yêu cầu hay một thoả ước song phương, dư luận báo chí thế giới, kể cả Hoa Kỳ đều coi cuộc chống trả của quân Hà Nội là chính đáng. Tuy gần hai năm sau Trung Cộng cũng đưa vào Bắc Việt 320,000 quân, nhưng chỉ hạn chế tại một số vùng xa ở miền cực Bắc mà nhân dân Bắc Việt bị cấm nghiêm ngặt không được bén mảng đến gần. Báo chí ngoại quốc lại tuyệt đối không được thông báo. Thành ra nhân dân trong nước và thế giới chỉ thấy quân Mỹ nhan nhản mà không thấy quân Liên Xô, Trung Cộng. Hơn nữa Bắc Việt còn dùng những mánh lới tuyên truyền hạ đẳng, bắt những tù binh Mỹ, trong đó có nhiều phi công bị bắn rơi trong những cuộc dội bom miền Bắc, đi diễu hành tại các thành phố lớn, rồi đưa lên truyền hình tố cáo với dư luận thế giới. Trong khi đó, tại miền Nam không thấy những cảnh tương tự. Vì vậy mà dư luận coi như cuộc kháng chiến của Bắc Việt chống Mỹ cứu nước là có chính nghĩa.

Cho nên khi Cộng quân chiến thắng khiến Mỹ phải rút và Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, thì cái công “thống nhất đất nước” được dư luận thế giói ghi nhận là công của ông Hồ, mặc dù lúc ấy ông ta đã chết được gần 6 năm rồi

(Còn tiếp)

© DCVOnline

--------------------------------------------------------------------------------
(*) Thực ra ngày QTLĐ là ngày hội chung cho công nhân toàn thế giới, ở Mỹ ngày này được gọi là May Day, (đánh dấu sự thành công của công nhân Úc cách nay đúng 51 năm, tranh đấu đòi quyền được hưởng mọi quyền lợi với thời lượng mỗi ngày chỉ làm 8 tiếng), không phải của giới vô sản theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng Viêt Cộng thường mừng lễ này theo tinh thần riêng.
(1) Chỉ xin nêu một danh tính, giáo sư Hoàng Xuân Hãn mà, cách đây 5 năm, chúng tôi đã có một bài nêu lên trường hợp của ông và phản bác nhận định của ông.
(2) Chúng tôi cũng chỉ nêu một tên: ông Lữ Phương, mà tôi đã dành hẳn một chương sách trong cuốn Tâm Sự Nước Non, AI GIẾT HỒ CHÍ MINH? để nói lên cái sai lầm cơ bản của ông này.
(2bis)Chỉ thị số 06/ CT/TW ngày 7/1/2007 bắt dân cả nước học tập trong 4 năm!
(3) Những cán bộ Cộng Sản từng được ông Hồ đích thân đào tạo, và/ hay được đào tạo tại học viên Lao động Đông Phương (từng mệnh danh là trường Stalin), hoặc tại trường Hoàng Phố ở Hoa Nam là trường chung của cả Quốc, Cộng Trung hoa một thời. Trong số những cán bộ cao cấp cộng sản Việt Nam viết tiểu sử của lãnh tụ chỉ xin kể Trường Chinh người được coi là viết tiểu sử Hồ hay nhất, sau đó là Phạm Văn Đồng, Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài và Võ Nguyên Giáp. Riêng họ Võ có tới 5 cuốn viết về ông Hồ, chưa kể một cuốn hồi ký Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên, trong đó ông Hồ được nói đến nhiều hơn chính tác giả.
(4) Trong 42 chương, 2 phần đầu, cuốn Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp chúng tôi đã trích dẫn một số lớn.
(5) Encyclopedia Britannica, 2000, tập 5 trang 953/955
(6) Encyclopedia Americana, 2000, tập 14, trang 253.
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3332

Aucun commentaire: