Sự thực về cái gọi là “Ðại Thắng Mùa Xuân”
Wednesday, March 21, 2007
Trần Bá Hợi
Tháng Bảy năm 1976, nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân đúc kết những câu chuyện của tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đã kể trên báo Nhân Dân và phát hành cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân. Khởi đầu, lời nhà xuất bản đã sặc mùi tuyên truyền rẻ tiền như sau: “Cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân xuất bản góp phần giúp chúng ta hiểu rõ sự chỉ đạo đứng đắn, sáng suốt, kiên quyết, nhạy bén của Bộ Chính Trị Trung ương Ðảng và Quân Ủy Trung Ương, đường lối và nghệ thuật quân sự xuất sắc của Ðảng ta, đồng thời góp phần cổ vũ quân và dân ta phát huy truyền thống anh hùng, nâng cao lòng tự hào, tin tưởng, tiến lên giành nhiều thắng lợi mới trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.”.
Và ngay trong lời nói đầu, tướng Dũng đã bịa đặt huênh hoang: “Một năm đã qua kể từ ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.”.
Ðoạn áp kết tướng Dũng tiếp tục xuyên tạc sự thực: “Cuốn sách này còn nhằm kịp thời bác bỏ những luận điểm sai trái, phản động do những kẻ xuyên tạc lịch sử, những bọn cướp nước và bán nước thua trận đang dựng lên hòng bào chữa cho thất bại thảm hại của chúng và hạ thấp chiến thắng của dân tộc ta.”
Khi phát hành cuốn sách đầy luận điệu tuyên truyền vô giá trị nêu trên 31 năm về trước, có lẽ nhà xuất bản, tướng Dũng và đảng cộng sản Bắc Việt nghĩ rằng những sự thực về cuộc chiến quốc cộng từ 1954 đến 1975 sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi theo thời gian. Do đó, họ nghĩ rằng họ có thể xuyên tạc sự thực để bóp méo lịch sử. Ðảng cộng sản tại Hà Nội lại càng muốn che dấu sự vi phạm trắng trợn Hiệp Ðịnh Ba Lê và man rợ tấn công Việt Nam Cộng Hòa sau khi đã ký kết Hiệp Ðịnh tại Ba Lê ngày 27 tháng 1 năm 1973. Họ cố gắng lừa bịp hậu thế hầu trốn tránh tội lỗi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa bằng chiêu bài chống đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, Việt Nam đã lâm vào tình trạng nghèo đói khủng khiếp. Kinh tế bế tắc trầm trọng đến độ chủ nghĩa Mác Lê và đỉnh cao trí tuệ của đảng cộng sản Bắc Việt không cứu vãn nổi. Người Việt quốc gia di tản ra hải ngoại để tránh nạn cộng sản đã phải gửi tiền và phẩm vật về để cưu mang thân nhân và bằng hữu còn kẹt lại. Dân chúng từ Nam ra Bắc đã thấy rõ Hoa Kỳ không hề xâm lăng Việt Nam để áp đặt chế độ thực dân như đảng tuyên truyền. Và toàn dân đều mong muốn Hoa Kỳ trở lại Việt Nam để đời sống được dễ thở hơn. Nếu không có nguồn tài trợ của người Việt quốc gia hải ngoại và nếu Hoa Kỳ không bãi bỏ cấm vận năm 1994 mở đường cho nhiều nguồn đầu tư từ Hoa Kỳ và các quốc gia khác vào Việt Nam, chắc chắn chế độ cộng sản không tránh khỏi nạn nghèo đói thảm khốc. Chiêu bài “Chống Mỹ Cứu Nước” trước đây của đảng đã lộ nguyên hình là mánh khóe tuyên truyền bịp bợm. Vì đảng và toàn dân hai miền Nam Bắc đã và đang Van Xin Mỹ Trở Lại Ðể Cứu Nước.
Khi viết những dòng này, một vài chiến hữu của tôi đề nghị nên bỏ qua chuyện cũ. Với tinh thần dân tộc cực đoan, họ muốn cứ để nhập nhằng như vậy rồi sau này lịch sử sẽ ghi rằng Việt Nam đã đánh bại quân Pháp và đập tan đế quốc Mỹ cho rạng danh dân Việt. Tôi tôn trọng ý kiến của vài bạn đó, nhưng không thể toa rập với nhóm người lãnh đạo cộng sản Bắc Việt để bóp méo lịch sử. Là người Việt, tôi rất tự hào về quá trình chống ngoại xâm của tiền nhân. Tôi thường hãnh diện kể lại cho các bạn Hoa Kỳ đồng sở về những chiến công hiển hách của tổ tiên nhiều lần đại thắng đám xâm lăng hung hãn từ phương Bắc. Những Thành Cát Tư Hãn, Thoát Hoan, Hốt Tất Liệt và nhiều nữa đã bao phen đại bại trước những danh tướng Việt. Tôi hãnh diện vì tổ tiên tôi đã chiến đấu chống ngoại xâm thực sự và chiến đấu với lòng ái quốc chân chính cùng với chiến thuật, chiến lược và phương tiện độc lập. Nhưng tôi không hãnh diện với nhóm lãnh đạo cộng sản Bắc Việt hay xuyên tạc và gian dối!!! Một sự thực lịch sử khó chối bỏ là nếu không có cuộc Nhật đảo chánh Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Minh không thể trục được Pháp ra khỏi Việt Nam? Nhưng nhóm lãnh đạo Việt Minh đã mạo nhận như chính họ đã giành lại độc lập cho quốc gia. Về chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 họ đã lừa bịp quần chúng như chính họ đã đơn phương chiến thắng quân Pháp. Sự thực Việt Minh được Trung Cộng cố vấn và viện trợ tối đa nhưng họ đã cố tình che dấu. Với sự cố vấn của hai tướng Trung Cộng Wei Guo-qing và Li Cheng-hu, Võ Nguyên Giáp phát động chiến thuật biển người tấn công Ðiện Biên Phủ. Nhưng chỉ trong ba ngày đầu, từ 13 đến 16 tháng 3, tướng Giáp đã nướng 9000 quân trong đó có 2000 tử vong (1). Kể cả cái gọi là Ðại Thắng Mùa Xuân mà tướng Dũng huênh hoang cũng không đáng được coi là một chiến thắng vẻ vang. Ðó thực ra chỉ là một kết quả tất nhiên khi Hoa Kỳ, đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa, thay đổi chính sách đối ngoại. Ðể tái lập bang giao với Trung Cộng hầu khai thác thị trường to lớn trong lục địa, ngoài việc không muốn tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ còn rút quân và bỏ ngỏ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó Hoa Kỳ cắt quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga và Tầu Cộng tiếp tục yểm trợ tối đa để cưỡng chiếm miền Nam. Trong hoàn cảnh thiếu thốn tận cùng về vũ khí và nhiên liệu, không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa mà bất cứ quân lực của một quốc gia nào vào hoàn cảnh tương tự cũng phải chịu bó tay. Tương quan hỏa lực và phương tiện giữa hai phe lâm chiến quá chênh lệch.
Một thực tế đau lòng không phủ nhận được là Việt Nam Cộng Hòa chịu nhiều thiệt thòi từ khi Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại Nam Việt Nam. Về chính nghĩa, Hoa Kỳ tạo cơ hội cho Cộng sản Bắc Việt dùng chiêu bài “Chống Mỹ Cứu Nước” để lừa dối dân chúng miền Bắc. Về tâm lý, dân chúng Hoa Kỳ bị xúc động mạnh vì sự tổn thất nặng về nhân mạng Về quân sự, kinh phí nuôi dưỡng hơn nửa triệu quân Hoa Kỳ theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ thật quá cao (2). Thêm nữa, sự hiện diện của Bộ Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại miền Nam đã khiến Việt Nam Cộng Hòa gần như bị tước đoạt đi sự độc lập về quyết định chiến thuật, chiến lược của cuộc chiến. Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ được đơn phương hành quân trên không hoặc dưới bộ ra miền Bắc. Sau vụ đụng độ giữa Hoa Kỳ và cộng sản tại Vịnh Bắc Việt ngày 2 tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ quyết định oanh tạc miền Bắc để trả đũa nhưng rất giới hạn. Sau đó, tới ngày 8 tháng 2 năm 1965 Không Lực Việt Nam Cộng Hòa mới được tham dự chiến dịch oanh tạc miền Bắc lần đầu tiên nhưng rất hạn chế. Không Lực Việt Nam Cộng Hòa không được quyền chọn lựa mục tiêu để oanh tạc và không được vượt quá vĩ tuyến 19 đã định bởi Hoa Kỳ. Chính Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ cùng Không Lực và Hải Quân cũng không được toàn quyền quyết định. Tất cả mục tiêu quan trọng dù mới hay cũ đều phải do chính Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson chấp thuận mới được oanh kích (3). Người viết đã thi hành nhiều phi vụ oanh kích ngày và đêm trên lãnh thổ Bắc Việt nhưng chưa bao giờ được phép bay qua vĩ tuyến 19. Sau đó ít lâu, Không Lực Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn không được phép oanh kích trên miền Bắc. Ðã không có thực quyền lãnh đạo cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa còn bị ảnh hưởng tai hại bởi đám báo chí thiên tả và nội tình chính trị rối loạn của đồng minh Hoa Kỳ. Thiển nghĩ, nếu Hoa Kỳ chỉ cần trang bị hiện đại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tăng quân số lên mức cần thiết và chỉ đóng vai trò cố vấn khách quan, kết quả cuộc chiến có thể đã khác biệt rất nhiều.
Trong khoảng hơn một thập niên vừa qua, rất nhiều tài liệu tối mật của Hoa Kỳ liên hệ tới cuộc chiến đã được giải mật. Một trong số những tài liệu vô cùng quan trọng liên hệ tới vận mệnh Việt Nam Cộng Hòa là biên bản buổi họp ngày 20 tháng 6 năm 1972 tại Bắc kinh (4). Trong buổi họp này, Tiến Sĩ Henry Kissinger, Phụ Tá An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon, và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã thảo luận nhiều vấn đề thế giới và đặc biệt là giải quyết cuộc chiến Việt Nam. Tài liệu gồm 37 trang dưới đây cho thấy sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới. Từ trang 1 đến trang 26, Hoa Kỳ và Trung Cộng bàn thảo về tương quan giữa các quốc gia cùng an ninh toàn cầu. Ðặc biệt từ trang 27 đến trang chót, Kissinger và Chu Ân Lai bàn luận kế hoạch giải quyết vấn đề Ðông Dương. Khai thác sự rạn nứt Trung - Nga năm 1969, Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Trung Cộng. Bang giao với Trung Cộng sẽ giúp Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, lấy lại hết tù binh, giải quyết những bất ổn chính trị tại Hoa Kỳ và còn được khai thác thị trường to lớn trong lục địa. Ðể tái thiết ngoại giao với Trung Hoa, Kissinger đã nói với Thủ Tướng họ Chu: “nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Ðông Dương”. Ngoài ra Kissinger cũng gián tiếp cam kết với Chu Ân Lai Hoa Kỳ không có ý định tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt. Hiển nhiên đây là ngôn ngữ của kẻ mạnh. Và cũng là một phản bác hùng hồn lột trần những luận điệu trơ trẽn, lộng ngôn và khoác lác của nhóm lãnh đạo cộng sản Bắc Việt cố tình thổi phồng một chiến thắng đã được Hoa Kỳ dàn xếp và bố thí. Ngoài ra tôi lại có dịp về thăm Hà Nội vào mùa hè năm 1999 sau 45 năm xa cách. Trong thời gian này tôi có dịp gặp vài sĩ quan cao cấp của quân đội nhân dân đã về hưu và một số cư dân Hà Nội ở tuổi trên dưới 60. Trong số những sĩ quan này có người đã từng tham chiến trong trận Ðiện Biên Phủ. Sau khi có dịp tham quan Sài Gòn họ đều tỏ ra rất ngạc nhiên vì miền Nam thịnh vượng quá. Theo nhận xét của họ, miền Nam đã đi trước miền Bắc cả mấy chục năm, đâu có nghèo đói và lạc hậu như đảng tuyên truyền. Ða số cư dân Hà Nội cho biết là vào mùa Giáng Sinh năm 1972, nếu Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền Bắc thêm vài ngày nữa, Hà Nội sẽ phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào Hoa Kỳ đưa ra.
Là một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tôi đang nghỉ hưu sau 28 năm bận rộn để tái tạo cuộc sống tại Hoa Kỳ. Ở tuổi 72, tôi dành thời giờ còn lại để tìm hiểu thêm về cuộc chiến quốc cộng năm xưa. Hàng triệu chiến hữu của tôi, và riêng cá nhân tôi đã dâng hiến 22 năm đẹp nhất của đời, để bảo vệ một lý tưởng: bảo vệ tự do và dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng đập tan nhiều cuộc tổng tấn công quy mô của tập đoàn cộng sản khát máu Bắc Việt. Nhưng tiếc thay, vào những ngày tháng chót, chính trị quốc tế đã lấn áp sự hy sinh của chúng tôi khiến chúng tôi không đạt được mục đích. Hơn ba thập niên đã qua, tôi đã quên hận thù những cán binh cộng sản. Nghĩ cho cùng, đại đa số họ chỉ là những nạn nhân của một chế độ toàn trị, khắc nghiệt và tàn ác. Thêm nữa, là quân nhân họ bắt buộc phải thi hành quân lệnh. Tôi không oán trách Hoa Kỳ vì Hoa Kỳ phải bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của 300 triệu công dân Hoa Kỳ. Tôi cũng không đổ lỗi cho Kissinger vì ông này chỉ là kẻ thừa hành một chính sách được giao phó. Nhưng tôi oán hận những người lãnh đạo cộng sản Bắc Việt. Vì chính họ đã đưa quê hương vào vòng binh lửa khiến cả triệu đồng bào hai miền Nam Bắc phải vong thân. Trên lý thuyết và thực tế, Bắc Việt đã hoàn toàn độc lập sau Hiệp Ðịnh Geneva ký năm 1954. Tại miền Nam, do lời yêu cầu của Việt Nam Cộng Hòa, toàn bộ quân đội Pháp triệt thoái ra khỏi miền Nam ngày 28 tháng 4 năm 1956. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Việt Minh đã dùng khẩu hiệu Ðộc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc để khích động tinh thần ái quốc của toàn dân. Và toàn dân không phân biệt già trẻ, trai gái, giầu nghèo, đã hăng say hy sinh cho đại nghĩa. Vì vậy, khi Việt Nam đã dành được độc lập, dù với hai thể chế chính trị khác nhau, Hồ Chí Minh nên chú trọng đến việc thực hiện hai phần còn lại là Tự Do và Hạnh Phúc cho toàn dân miền Bắc mới đúng. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đồng bọn chỉ luôn luôn mưu toan thôn tính Việt Nam Cộng Hòa trong khi Việt Nam Cộng Hòa đang sống trong Tự Do và Hạnh Phúc yên lành. Nếu Hồ Chí Minh là người thực sự yêu nước thương dân và dồn tất cả nỗ lực cùng tâm huyết vào việc tái thiết miền Bắc, chắc chắn cả hai miền Nam Bắc đã rất phú cường! Tôi hiểu rằng thời gian đã trễ để nhắc lại chuyện xưa, tuy nhiên tôi nghĩ rằng không bao giờ trễ để hiệu chính dữ kiện đứng đắn hầu bảo tồn sự chính xác của lịch sử.
Vì tài liệu quá dài, tôi chỉ chuyển ngữ 10 trang quan trọng liên hệ tới Việt Nam (từ 27 đến 37) để quý độc giả theo dõi cuộc thảo luận giữa Kissinger và Chu Ân Lai. Ðọc xong tài liệu này chúng ta đều thấy rõ ràng hơn, tướng Dũng đã gian dối không nói đúng sự thực. Cuộc “chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ” hoàn toàn không có như lời tướng Dũng. Thêm nữa, “Cái gọi là Ðại Thắng Mùa Xuân” mà tướng Dũng khoe khoang, sự thực, chỉ là một sự bố thí của Hoa Kỳ sau khi thỏa thuận với Trung Cộng để Hoa Kỳ đạt những mục đích chính trị và kinh tế to lớn hơn. Tướng Dũng và nhà xuất bản quân đội nhân dân mới đích thực là những kẻ xuyên tạc lịch sử. Nếu quý độc giả muốn đọc nguyên bản Anh Ngữ, quý vị có thể vào hai trang mạng dưới đây:
(1) www.gwu.edu/Ạnsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/HAK%206-20-72.pdf hoặc
(2) http://www.vietamericanvets.com
(nguoiviet)
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire