1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] - 7.[Thu doan cs d/v Ton giao] (10.H_mt) (11.H_qh)

samedi 17 mars 2007

Hiến pháp của nước Pháp (tieng Viet)

Hiến pháp của nước Pháp (tieng Viet)

PHÁP QUỐC VÀ BÁN TỔNG THỐNG CHẾ


- NGUYỄN HỌC TẬP -

Giáo sư Duverger, một nhà chính trị học xuất sắc của nước Pháp đã bình luận về Bán Tổng Thống Chế ( Semiprésidentialisme) của Pháp như sau:

- “ Cuộc cải cách của Tướng De Gaulle ( sau nầy trở thành Tổng Thống ) năm 1958 đã cống hiến cho Pháp những cơ chế Quốc Gia hữu hiệu nhứt, mà nước Pháp chưa hề được biết đến, kể từ cuộc Cách Mạng 1789 ” ( Duverger, Bréviaire de la Cohabitation, Paris, 122).

Những gì sẽ được trình bày sau đây, hy vọng giúp chúng ta xác quyết được lời quả quyết của Gs Duverger về ưu cũng như khuyết điểm của cơ chế mà Pháp Quốc hiện đang áp dụng, để điều hành guồng máy Quốc Gia của mình.
Chúng ta cũng biết Pháp quốc là một Quốc Gia đứng nhứt nhì Âu Châu về dân số, kinh tế, chính trị cũng như quân sự, kể cả vũ khí nguyên tử, khả dĩ so với Cộng Hoà Liên Bang Đức.

Trong bài Tổng Thống Chế Hoa Kỳ và Anh Quốc và Đại Nghị Chế, chúng ta đã đề cập đến những đặc điểm của hai thể thức tổ chức Quốc Gia như sau:
- Nguyên tắc phân quyền cũng như phương thức “ kiểm soát và cân bằng ”, vị Tổng Thống được dân bầu lên ( trực tiếp hay gián tiếp) không qua trung gian Quốc Hội. Tổng Thống vừa là vị Nguyên Thủ, tượng trưng cho sự đoàn kết Quốc Gia, nhưng cũng là vị lãnh đạo cơ quan Hành Pháp trong Tổng Thống Chế.
- Trong khi đó thì ở Đại Nghị Chế ( hay việc quản trị quyền lực Quốc Gia qua trung gian Quốc Hội), Vị Nguyên Thủ Quốc Gia, tượng trưng cho sự đoàn kết. Vị Nguyên Thủ Quốc Gia có thể là Vua hay Nữ Hoàng ( như Anh Quốc và các nước theo Quân Chủ hay Quân Chủ Lập Hiến), hoặc Tổng Thống do Lưỡng Viện Quốc Hội ( có thể cộng thêm với các đại diện Cộng Đồng Địa Phương) bầu ra, đại diện cho đất nước, nhưng không có quyền Hành Pháp.Vị Thủ Tướng, người lãnh đạo cơ quan Hành Pháp hay Chính Phủ, được Vua, Nữ Hoàng hay Tổng Thống chỉ định với sự đồng thuận của Quốc Hội, chịu trách nhiệm về đường lối chính trị, cũng như cách hành xử quyền bính Quốc Gia trước Quốc Hội. Do đó Quốc Hội có quyền “ tín nhiệm ” hay “ truất phế ” ( bằng lá phiếu bất tín nhiệm), trong động tác “ chuẩn y ” hay “bác bỏ”, mà chúng ta đã có dịp đề cập đến trong bài QUỐC HỘI.
Cũng trong bài Anh Quốc và Đại Nghị Chế, chúng ta đã có dịp nói đến việc hầu hết các Quốc Gia Âu Châu, trong đó có cả Pháp Quốc, sau những kinh nghiệm đắc giá phải trả trong quá khứ về các cách hành xử độc tài của Chính Quyền, Hitler và Mussolini chẳng hạn, đều lấy Đại Nghị Chế làm phương thức tổ chức cơ chế Quốc Gia.
Nhưng Đại Nghị Chế của Cộng Hoà Liên Bang Đức không hẳn đồng nhứt với Đại Nghị Chế của Ý. Đại Nghị Chế của các Quốc Gia Scandinavie (Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển) không hẳn đồng nhứt với Đại Nghị Chế của Pháp.

Tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh của địa phương, các Quốc Gia Âu Châu đã biến Đại Nghị Chế của họ để đáp ứng lại hữu hiệu hơn các đòi hỏi của đất nước.
Một trong những biến thể đặc thù đó là hình thức Bán Tổng Thống Chế của Pháp Quốc, mà chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ở những trang sau đây.

I - Từ Đại Nghị Chế đến Bán Tổng Thống Chế.

Ngày 20.06.1789, Ủy Ban Cách Mạng họp nhau, được mệnh danh là “ Quốc Gia Thứ Ba ” ( Le Troisième État) trong khuôn viên điện Tuillerie ở Paris, đã tuyên bố cáo chung thể chế quân chủ chuyên chế của nước Pháp “ Ancien Régime ”, mở đầu cho một kỷ nguyên mới với thể chế dân chủ, qua bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân, mà chúng ta đã có dịp đề cập đến trong các bài BÌNH ĐẲNG, HIẾN PHÁP và QUỐC GIA.
Kể từ năm đó ( 1789) cho đến năm 1879, trong suốt thời gian 90 năm, nền dân chủ còn chập chững của Pháp đã trải qua một khoảng thời gian bấp bênh về ý hướng xác định cơ chế phải có để thực hiện thể chế dân chủ.
Mặc cho những lý tưởng cơ bản vững chắc đã được các nhà cách mạng đặt thành cột trụ cho toà nhà dân chủ, đó là Bình Đẳng, Tự Do và Tình Thân Hữu Liên Đới ( Egalité, Liberté, Fraternité).
Nhưng thực hiện những tư tưởng cao đẹp trên bằng cách nào? Đó mới là vấn đề.
Do đó, trong suốt 90 năm kể trên, nước Pháp đã phải dò dẫm, thêm bớt, sửa đổi Hiến Pháp đến 15 lần.
Từ năm 1879-1940, sau khi đã có những ý thức rõ rệt về những ý hướng và phương thức phải có cho cuộc sống dân chủ, nước Pháp đã trải qua một thời gian ổn định về cơ cấu của Hiến Pháp.
Nhưng việc đem những điều khoản viết trong Hiến Pháp để áp dụng vào thực tế lại là những vấn đề khác nữa.
Do đó trong vòng 60 năm vừa kể ( 1879-1940), người Pháp đã phải lật đổ Chính Phủ đến 110 lần, mỗi Chính Phủ trung bình đứng vững không quá 7 tháng !
Người ta có cảm tưởng việc lật đổ Chính Phủ nhanh chóng trong thời gian trên như việc

« cháy cầu chì mạch điện, mỗi khi mạch điện bị bế tắc hay điện thế thay đổi quá cao, để tránh đại hỏa hoạn có thể xảy ra » ( Prélot, Insitutions politiques et droit constitutionel, Paris 1957).

Nói cách khác, lật đổ Chính quyền « bất lực », « vô dụng » để bảo toàn Hiến Pháp và các cơ chế khác của Quốc Gia.
Trong khoản thời gian thế chiến thứ II ( 1939-1945), quyền lãnh đạo Hành Pháp được trao toàn quyền cho Thủ Tướng Vichy, Tổng Thống Pétain và Laval, cũng như sau đó, cho Chính Phủ tạm thời lưu vong được Đại Tướng De Gaulle lãnh đạo, đặt căn cứ ở Anh Quốc, rồi trở về Pháp, sau cuộc đổ bộ của quân đồng minh ở Normandie.
Sau khi thế chiến thứ II chấm dứt, năm 1946, để thích ứng với tình thế, một Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp được thành lập để tu chính và soạn thảo một Hiến Pháp mới.
Dự thảo thứ 2 của Ủy Ban được cuộc trưng cầu dân ý ngày 13.10.1946 chấp thuận và Hiến Pháp 1946 hay Hiến Pháp nền Đệ IV Cộng Hoà Pháp Quốc được công bố ngày 27.10.1946.

Hiến Pháp của nền Đệ IV Cộng Hoà Pháp Quốc ( hay Hiến Pháp 1946) được soạn thảo với tinh thần điều hợp các nhu cầu mới của Quốc Gia vừa thoát khỏi tàn phá của chiến tranh , cũng như các đòi hỏi mới của các Quốc Gia thuộc địa, trong đó có cả Việt Nam của chúng ta, nhằm biến các Quốc Gia nầy thành một khối Liên Hiệp Pháp ( Union Francaise), cũng như nhằm hữu hiệu và tổ chức vững chắc hơn các cơ cấu Hành Pháp ở nội địa.
Nói cách khác, Pháp vẫn áp dụng Đại Nghị Chế cho việc tổ chức các cơ cấu quyền lực Quốc Gia, nhưng là một Đại Nghị Chế hợp lý ( rationsalisé), để tránh tình trạng 60 năm, 110 Chính Phủ vừa kế.
Từ ngữ Đại Nghị Chế Hợp Lý ( Parlamentarisme rationalisé) là thành ngữ mà chúng ta có thể tìm lại được trong các văn kiện của Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp 1946, còn thành ngữ Bán Tổng Thống Chế, chỉ là thành ngữ mà các học giả về chính trị như Gs Duverger, Ardant, Vedel…đã dùng để chỉ phương thức Đại nghị Chế Hợp Lý trên, có những đặc tính của Tổng Thống Chế Hoa Kỳ, nhưng vẫn còn giữ những nét đặc thù của Đại Nghị Chế Anh Quốc, chúng ta sẽ cùng nhau đề cập đến trong những phần kế tiếp.

Như đã trình bày, chúng ta thấy rằng ngay từ Hiến Pháp của Đệ IV Cộng Hoà 1946, nước Pháp đã có khuynh hướng biến Đại Nghị Chế thành Tổng Thống Chế để đáp ứng lại những nhu cầu mới của đất nước.
Nhưng khuynh hướng đó sẽ còn đậm nét hơn nữa với cơ chế của nền Đệ V Cộng Hoà, với Hiến Pháp 1958.
Mặc cho tinh thần Hợp Lý Hoá ( rationaliser) của Hiến Pháp 1946, nền Đệ IV Cộng Hoà cũng chưa mang lại được sự ổn định và vững mạnh của nền Hành Pháp ( chỉ trong 12 năm, 1946-1958, Nội Các đã bị đổ 20 lần), thể thức bầu cử theo đa số tương đối đã tạo ra thiên hình vạn trạng các đảng phái chính trị.
Do đó mà trong Quốc Hội, khó có được một lực lượng đa số thoả đáng khả dĩ quyết định đường lối và luật pháp cho Quốc Gia.
Ở nội địa đã vậy, ở hải ngoại Pháp đang bị các thuộc địa nổi lên giành độc lập. Đông Dương ( Việt-Miên-Lào) đã thoát khỏi tầm tay của Pháp trong thập niên 1950. Và cơn khủng hoảng trầm trọng ở Algérie bùng nổ ngày 13.5.1958 với cuộc nổi loạn của lực lượng đồn trú tại Quốc Gia nầy, cũng như trước đó những cuộc xuống đường đẫm máu của dân chúng Algérie.

Trước tình trạng khẩn trương đó, Hạ Viện kêu gọi Đại Tướng De Gaulle ( người đã có công cùng quân đội đồng minh giải phóng Pháp khỏi sự thống trị của quân dội Hitler, nên được dân chúng gọi là « người hùng » của dân tộc, đứng ra thành lập Chính Phủ và giao cho ông trọn quyền quyết định mọi vấn đề trong vòng 6 tháng để chấn chỉnh lại đất nước.
Cũng trong cùng một ngày được trao quyền lập Chính Phủ trên, ngày 30.06.1958, Hạ Viện giao che Đại Tướng nhiệm vụ soạn thảo ra chương trình canh tân Hiến Pháp.
Dự Án ( Avant Projet) cho một Tân Hiến Pháp được giao cho một Ủy Ban Chính Phủ (Comité Ministeriel) soạn thảo, dưới quyền giám định của vị Chưởng Ấn Debré, với sự cộng tác của Hội Đồng Tư Vấn Quốc Gia ( Comité Consultatif National), gồm Dân Biểu Quốc Hội và những vị chuyên môn về luật pháp, cùng với sự đóng góp ý kiến của Tham Chính Viện ( Conseil d’État).

Hiến Pháp của Đệ V Cộng Hoà, Hiến Pháp hiện hành Pháp Quốc, đã được cuộc trưng cầu dân ý ngày 28.09.1958 chấp thuận và được công bố ngày 04.10.1958 ( Cadart, Institutions politiques et droit constitutionel, II ed. , Paris 1958, vol. I et II ).

Đọc qua Hiến Pháp hiện hành Pháp Quốc, ai cũng nhận thấy khuynh hướng muốn tăng thêm quyền lực cho Hành Pháp, giảm bớt thế lực của Quốc Hội và bắt buộc các chính đảng phải hành động một cách có trách nhiệm hơn, không như trong quá khứ, để kịp thời giải quyết những vấn đề quan trọng của Quốc Gia, phải giảm thiểu đi thành phần « lưng chừng », để khỏi làm tê liệt những quyết định quan trọng đáng lý phải được giải quyết.

Trước khi đưa ra nhận xét và một ít lời bình luận, thiết nghĩ chúng ta cùng nhau lượt qua một vài điều khoản đặc biệt của Hiến Pháp, để làm nền tảng cho cuộc luận đàm.
Hy vọng những ưu khuyết điểm của nền Đệ V Cộng Hòa Pháp sẽ là những vốn liếng lợi ích cho những ai còn mang trong tâm tư một tương lai sáng sủa hơn cho quê hương, sau những gì bất hạnh mà thể chế Cộng Sản đang áp đặt lên đầu dân chúng Việt Nam.

A - Tổng Thống.

Ngay ở Đề Mục I ( Titre I), Hiến Pháp đã xác định tính cách Dân Chủ Đại Diện của nền Đệ V Cộng Hoà Pháp Quốc :

- « Quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân và người dân hành xử quyền tối thượng đó qua những người đại diện của mình » .


Trước khi đề cập đến quyền hạn và nhiệm cụ của Tổng Thống, trong Đề Mục II, Hiến Pháp đã nhắc lại tính cách dân chủ của nước Pháp, bằng cách đề cập đến nền tảng dân chủ của Quốc Gia có nguồn gốc của mình từ Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân 1789, cũng như của Hiến Pháp 1946, liên quan đến quyền kinh tế và xã hội của người dân mà Bản Tuyên Ngôn 1789 chưa có dịp đề cập đến.

Tiền Đề ngắn ngủi trên của Đề Mục II, Bản Tuyên Ngôn được một Ủy Ban soan thảo, cũng như sau đó được dân chúng tán thành và chấp nhận trong cuộc trưng cầu dân ý, được đặt ở vị trí nổi bậc khởi đầu của Hiến Pháp để tuyên bố thể chế dân chủ một cách long trọng, trước khi đề cập đến cơ chế và quyền lực Quốc Gia, có ý nghĩa như là lời cảnh cáo cho những ai có trách nhiệm thi hành quyền lực quốc Gia sau nầy, đừng thấy uy quyền của Hành Pháp có tính cách nới rộng, quyền hạn của Quốc Hội bị hạn chế mà có « mưu đồ » độc tài, bè phái, đảng trị.
Bởi vì những mưu tính như vừa kể sẽ đi ngược lại với « quyền dân chủ tối thượng » của người dân (Đề Mục I) và phản lại nguồn gốc Bình Đẳng, Tự Do và Thân Hữu Hỗ Tương của Quốc Gia, phát xuất từ Cách Mạng đẫm máu và đắt giá mà dân chúng Pháp đã phải trả mới đạt được.
Dân chúng Pháp sẽ không thể chấp nhận những « toan tính bất chính » đó, tư tưởng của Tiền Đề ở Đề Mục II .

Điều 5 nói lên tính cách « trọng tài » và « bảo chứng » không thiên vị của Tổng Thống :

- « Tổng Thống bảo đảm cho việc tôn trọng Hiến Pháp và qua tính cách trọng tài (không thiên vị) bảo đảm cho các quyền lực công cộng được hoạt động đều hòa, bảo đảm cho tính cách liên tục của Quốc Gia ».

Điều 7 nói lên tính cách mới mẻ của Hiến Pháp Đệ V Cộng Hoà :

- « Tổng Thống được tuyển chọn với nhiệm kỳ là 7 năm, do một Ủy ban Tuyển Cử Tổng Thống (Collège) ( không do Quốc Hội Lưỡng Viện nữa). Ủy Ban Tuyển Cử gồm có 80.000 cử tri : Dân Biểu Quốc Hội, các thành viên được dân chúng chọn của Hội Đồng Vùng (Départements)và Hội Đồng Làng , Xã ( Comunes). Tổng Thống sẽ được tái cử vô hạn định ».

Đặc tính mới mẻ quan trọng của điều 7 là Tổng Thống được tuyển chọn không qua trung gian Quốc Hội ( như trong Đại Nghị Chế), mà là do dân chúng bầu lên, mặc dầu cuộc bầu cử có gián tiếp ( như trong T6ỏng Thống Chế của Hoa Kỳ) : dân chúng bầu ra cử tri của Ủy ban Tuyển Cử (Đại Biểu Quốc Hội và các thành viên của Hội Đồng Vùng, Làng Xã), rồi Ủy Ban Tuyển Cử bầu ra Tổng Thống.
Điều đó nói lên tính cách không lệ thuộc của Tổng Thống Pháp vào Qưốc Hội, như vị Tổng Thống trong Tổng Thống Chế Hoa Kỳ.
Một điều mới quan trọng nữa là Tổng Thống được bầu lên không do Quốc Hội, nên không tùy thuộc vào Quốc Hội, có quyền chọn vị Thủ Tướng Chính Phủ. Và theo sự đề nghị của Thủ Tướng, Tổng Thống chọn các Bộ Trưởng khác cho thành phần Nội Các Chính Phủ (điều 8 ).

Đề Mục II dành cho Tổng Thống nhiều quyền hạn khác :
- quyền tuyển chọn hay bải nhiệm Thủ Tướng như vừa nói,
- quyền Chủ Tọa Hội Đồng Nội Các ( trong khi đó, vai trò của Thủ Tướng là để chuẩn bị và nghiêng cứu chương trình chính trị cũng như chương trình nghị sự của Nội Các),
- quyền công bố luật pháp ( sau khi được Quốc Hội chuẩn y) cũng như quyền yêu cầu Quốc Hội duyệt xét lại các luật lệ đã được phê chuẩn.
- quyền giải tán Hạ Viện ( Assemblée Nationale), ngoại trừ trường hợp Hạ Viện vừa được tuyển chọn chưa quá một năm.
- quyền ân ký hay bác bỏ các nghị định và sắc luật ( decrets et ordonnances) của Chính Phủ.
- quyền tuyển chọn và bãi nhiệm các nhân viên cao cấp trong guồng máy hành chánh.
- quyền đặt các đại sứ tại các quốc gia ở hải ngoại.
- Tổng Thống cũng là vị Tư Lệnh tối cao quân đội. Dưới thời Tổng Thống De Gaulle, trong trường hợp bị ngoại bang tấn công, Tổng Thống có quyền trực tiếp ra lệnh phản công ( trong khi đó thì ở Đại Nghị Chế, Quốc Hội mới là cơ quan tuyên bố tình trạng chiến tranh và cho phép Chính Quyền các quyền lực cần thiết để đáp ứng với tình trạng).Với vũ khí nguyên tử mà Pháp Quốc có trong tay, chúng ta có thể tưởng tượng được hậu quả của quyền lực đó của Tổng Thống de Gaulle ( Cohen, Monarchie nucléaire, dynarchie conventionelle, n. 38 « L’armée », en Revue Pouvoir, 1986).
- quyền ban ân xá và chuyển đạt thông điệp đến Quốc Hội (điều 18),
- quyền thương thuyết và ký các thoả ước quốc tế ( Chính Phủ chỉ có quyền ký các giao ước thông thường),
- trong trường hợp khẩn trương (điều 16), Tổng Thống cóthể dùng tất cả mọi biện pháp cần thiết, với điều kiện là thông báo cho Quốc Hội và không được giải tán Quốc Hội , trong khi hành xử các quyền lực nầy, vì Quốc Hội được coi là bảo chứng cho quyền tự do của người dân. Quốc Hội Lưỡng Viện có quyền truất phế Tổng Thống (đặc tính còn lại của Đại Nghị Chế) và tố giác Tổng Thống trước Tối Cao Pháp Viện ( Cour Suprême), tương tự như thể thức tố giác ( impeachment) của Tổng Thống Chế Hoa Kỳ.
- quyền quyết định trưng cầu dân ý đối với các luật lệ cơ bản về tổ chức công quyền (điều 11).
- quyền chỉ định trong số 9 thành viên của Hội Đồng Bảo Hiến ( Conseil Constitutionel) (điều 56).

B – Chính Phủ .
Đề Mục III của Hiến Pháp đề cập đến Chính Quyền.
Trước hết, Thủ Tướng có nhiệm vụ lãnh đạo các hoạt động của Chính Phủ, điều hành quyền thi hành luật pháp và tuyển chọn các viên chức quân sự cũng như dân sự.

Chính Phủ ( gồm có Thủ Tướng và các Bộ Trưởng ) có nhiệm vụ định đoạt và thực thi chương trình chính trị cho Quốc Gia với các cơ quan hành chánh, quân đội và chịu trách nhiệm trước Hạ Viện.
Chính Phủ bắt đầu thi hành quyền lực hiến định của mình ngay từ lúc danh tánh của vị Thủ Tướng được Tổng Thống tuyên bố bằng một nghị định.
Do đó Chính Phủ không cần phải chờ đến sự bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc Hội (điều 49), như trong Đại Nghị Chế.
Nhiều ý kiến cho rằng việc tín nhiệm của Quốc Hội đối với Tân Chính Phủ đưọc coi là mặc nhiên (implicite), nếu không có đa số tuyệt đối của Hạ Viện bỏ phiếu bất tín nhiệm (Motion de Censure).

Và cũng theo điều 49, Thủ Tương đứng ra chịu trách nhiệm dối với bất cứ luật lệ của Chính Phủ đưa ra ( với sự hiểu ngầm là Hạ Viện mặc nhiên đồng thuận), nếu không có bất tín nhiệm theo điều kiện vừa kể.
Giáo sư Giovanelli của đại học Milano cho đây là

“ Viên đá nền tảng của Đệ V Cộng Hoà Pháp Quốc” ( Giovanelli, Aspetti della V Repubblica, da De Gaulle a Mitterand, Giuffré, Milano 1983, 119).

Điều 49 hiểu theo tinh thần vừa kể, bắt buộc Hạ Viện và các dân biểu phải có thái độ dứt khoát và rõ rệt: đồng thuận hay chống đối dự án luật của Chính Phủ, tránh trường hợp các loại dân biểu “lừng khừng ” như đã nói ở trên. Chính thành phần nầy làm cho Chính Phủ bị tê liệt trong việc hành xử của mình.

Các Chính Phủ dưới quyền các Thủ Tướng Rocard, Cresson và Bérégovoy đã nhiều lần áp dụng điều khoản nầy cho việc thi hành đường lối chính trị của họ, bởi lẽ các nhóm dân biểu đối lập trong Hạ Viện khó mà họp nhau đồng thuận để tạo được đa số tuyệt đối “phủ quyết ” đạo luật của Chính Phủ.

Điều 8: “ Tổng Thống có quyền chỉ định vị Thủ Tướng và chấp nhận Thủ Tướng từ chức khi được Thủ Tướng đệ trình”.

Bản văn của điều 8 được Tổng Thống De Gaulle và cả Tổng Thống Mitterand xem như là quyền chỉ định và thu hồi chức vị của Thủ Tướng là do ý muốn của Tổng Thống.
Nếu giải tích bản văn của Hiến Pháp theo chiều hướng “cưỡng chế ” ( interpretation forcée) như trên, thì Thủ Tướng cũng như Nội Các Chính Phủ đều tùy thuộc vào Tổng Thống hơn là chịu trách nhiệm trước Quốc Hội, như chúng ta đã đề cập ở trên ( Ardant, Le Premier Ministre en France, Paris 1991, 41).

Lối giải thích điều 8 của Hiến Pháp như vừa kể, cũng như lối giải thích một số điều khoản khác nữa theo tinh thần trên, chúng ta sẽ có dịp cùng nhau bàn rộng hơn trong phần nhận xét, đã làm cho một số nhà chính trị học cho rằng Hiến Pháp Đệ V Cộng Hoà Pháp Quốc là bản văn

“…mơ hồ trong văn mạch, được đọc ra dưới nhiều hình thức và biến hóa trong giải thích ” ( Mény, Le système politique francais, Paris 1993, 14).

Một điều khoản nữa, điều 23, cấm các thành viên của Chính Phủ vừa là thành viên của Hành Pháp vừa đại biểu Quốc Hội ( khác với vi thế các Bộ Trưởng trong Nội Các Chế hay Đại Nghị Chế của Anh Quốc).
Điều đó nói lên tính cách thiên về Tổng Thống Chế nhiều hơn là Đại Nghị Chế của Hiến Pháp Đệ V Cộng Hòa Pháp Quốc.

C - Quốc Hội.
Đề Mục IV đề cập đến Quốc Hội.
Quốc Hội của Pháp Quốc hiện nay có Hạ Viện và Thượng Viện.

Hạ Viện gồm có 491 dân biểu và con số được tăng lên 577 cùng với đạo luật của Tổng Thống Mitterand năm 1985 và Thượng Viện gồm có 295 Thượng Nghị Sĩ.
Hạ Viện có nhiệm kỳ 5 năm do cuộc phổ thông đầu phiếu bầu ra và trong đơn vị đơn danh với đa số tuyệt đối ở vòng đầu, nếu ứng cử viên vuợt quá 50% số phiếu hoặc cuộc tranh cử “ lưỡng hổ tranh hùng ” ( ballotage) giữa hai ứng cử viên nhiều phiếu nhứt ở vòng đầu.
Trong khi đó thì Thượng Viện sẽ có nhiệm kỳ 9 năm, cứ mỗi 3 năm bầu lại 1/3 thành viên. Các Thượng Nghị Sĩ sẽ được một Ủy Ban Tuyển Cử khoảng 100.000 cửa tri chọn lựa. Cử tri của Ủy Ban Tuyển Cử gồm các Đại Biểu Quốc Hội, các vị đại diện Hội Đồng Vùng, Làng Xã, ở nội địa, cũng như ở đất đai của Pháp tại hải ngoại.

Đối với Quốc Hội, với việc tăng cường nhiều quyền cho Tổng Thống, Hiến Pháp hiện hành đã cắt bớt đi rất nhiều quyền hạn.
Mặc dầu Quốc Hội Lưỡng Viện có quyền truất phế cũng như tố giác Tổng Thống trước Tối Cao Pháp Viện, Tổng Thống có quyền giải tán Hạ Viện và khi cần, có quyền quyết định trưng cầu dân ý về những luật lệ cơ bản để tổ chức công quyền (điều 11), không cần phải thông qua ý kiến của Quốc Hội.

Đọc qua Hiến Pháp hiện hành, chúng ta sẽ thấy những dấu vết của Chính Quyền dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống De Gaulle, không mấy có thiện cảm và tin cậy ở Đại Nghị Chế (vai trò của Quốc Hội), do kinh nghiệm hơn 80 năm chập chững và không hữu dụng của Hành Pháp ( Pegoraro, Il Governo in Parlamento. L’esperienza della V Repubblica, Cedam, Padova 1983).
Do đó:

- Điều 28: Quốc Hội chỉ có 2 phiên họp định kỳ thường niên và mỗi phiên họp không được kéo dài quá 3 tháng.
- Điều 29: trong trường hợp có những phiên họp bất thường, mỗi phiên họp không được kéo dài quá 12 ngày.
- Điều 34: Hiến Pháp nới rộng nhiều lãnh vực trong đó Hành Pháp có quyền ra nghị định và sắc lệnh ( decrets et ordonnances), thay vì theo thông lệ Đại Nghị Chế, Chính Phủ thảo ra dự án luật, sau đó Quốc Hội biểu quyết “ chuẩn y hay bác bỏ ” (phận vụ chính yếu của cơ chế Quốc Hội) ( Cf. QUỐC HỘI), dự án luật mới có giá trị và luật lệ mới có hiệu lực.
- Và như theo điều 49 nói trên, Thủ Tướng ra luật, truyền lệnh và chịu trách nhiệm về đạo luật được đưa ra, hiểu ngầm rằng được Quốc Hội mặc nhiên công nhận, nếu không có lệnh phủ quyết rõ ràng của Quốc Hội với đa số tuyệt đối của các thành viên.
- Điều 37: ở những lãnh vực còn lại dành quyền cho Quốc Hội, Quốc Hội cũng chỉ có nhiệm vụ soạn thảo các luật lệ căn bản ( lois cadre), còn những điều khoản luật để áp dụng vào thực tế sẽ được dành cho Chính Phủ.
- Điều 48: chương trình nghị sự của Quốc Hội cũng được Chính Phủ quyết định. Quốc Hội phải dành ưu tiên cứu xét trước các vấn đề mà Chính Phủ cho là khẩn thiết. Trái lại các vấn nạn mà các đại biểu bạch vấn Chính Phủ, chỉ được Chính Phủ trả lời mỗi tuần một lần, trong một phiên họp.
- Cũng ở điều 49, Chính Phủ phải từ chức nếu bị Quốc Hội bỏ phiếu bất tín nhiệm. Cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm trước hết phải được ít nhứt 1/10 số dân biểu đề nghị và cuộc bỏ phiếu sẽ được diển ra sau đó, không được trước 48 tiếng đồng hồ.
Trong trường hợp Thủ Tướng không yêu cầu Quốc Hội phán quyết về chương trình tổng quát hay đường lối chính trị của Chính Phủ, mà chỉ đối với một đạo luật cá biệt nào đó, sự “ phủ quyết ” của Quốc Hội đối với đạo luật, không nhứt thiết bắt buộc Chính Phủ phải từ chức. Thủ Tướng có thể xin Quốc Hội xét lại toàn đạo luật hay một phần của đạo luật (điều 44). Nếu trong thời gian 24 tiếng đồng hồ không có sự trả lời bác bỏ của Quốc Hội, đạo luật sẽ bắt đầu có hiệu lực.

Ngoài ra Quốc Hội Lưỡng Viện, Hiến Pháp cũng đề cập đến các Hội Đồng chuyên biệt:
- Hội Đồng kinh tế và xã hội, gồm 200 thành viên ( 140 từ các tổ chức kinh tế như kỷ nghệ, thương mại, công đoàn và 60 do Chính Phủ chỉ định),
- Hội Đồng thẩm vấn tối cao, gồm có vị Chủ Tịch là Tổng Thống và những thành viên được quyết định bởi các luật cơ bản về công quyền,
- Tối Cao Pháp Viện, gồm 24 thành viên do Quốc Hội Lưỡng Viện chỉ định, mỗi Viện chỉ định ½ số thành viên. Tối Cao Pháp Viện có quyền xét xử Tổng Thống cũng như Chính Phủ về tội phản quốc, cũng như những việc làm lạm quyền của Hành Pháp.

- Hội Đồng Bảo Hiến, gồm 9 thành viên: 3 do Tổng Thống chỉ định, 3 do Hạ Viện và 3 do Thượng Viện. Hội Đồng Bảo Hiến có nhiệm vụ kiểm soát các cuộc bầu cử Quốc Hội, Tổng Thống, kết quả các cuộc trưng cầu dân ý và phán quyết về tính cách hợp hiến của các đạo luật, nghị định, sắc lệnh của Chính Phủ, Tổng Thống và quốc Hội (điều 16).


II - Một vài nhận xét.

1 - Những yếu tố thành công của Bán Tổng Thống Chế Đệ V Cộng Hoà Pháp Quốc.

a - Hỗ trợ cho thời kỳ phất triển kinh tế vược bực tại Âu Châu trong thập niên 1960-1970, mà chúng ta đã có dịp đề cập đến trong bài THẤY NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA, từ kinh tế Ý đến tương lại kinh tế Việt Nam, cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle năm 1958 đã

“cống hiến cho nước Pháp những cơ cấu quốc gia hữu dụng nhứt, mà nước Pháp chưa hề biết đến, kể từ cuộc Cách mạng 1789” ( Gs Duverger).

Nói cách khác, Đại Tướng De Gaulle và Tổng Thống De Gaulle đã được “ Thiên thời ” ưu đải trong sự nghiệp phục vụ đất nước của ông.
Việc tạo dựng những “ cơ cấu quốc gia hữu hiệu nhứt ”, nhứt là cơ cấu về hành chánh không phải là yếu tố nhỏ nhoi cho việc phát triển kinh tế.
Thủ Tướng và Nội Các Chính Phủ “ sống chết ” tùy thuộc vào Tổng Thống (ít nhứt là theo lối giải thích điều 8 Hiến Pháp, dưới thời De Gaulle và Mitterand) , cho nên nếu không “hữu dụng”, viễn ảnh Chính Phủ “ chết yểu ” sẽ hiện ra trước mắt. Hay nói như Gs Wilson, Bán Tổng Thống Chế đã cống hiến cho nước Pháp nền Hành Chánh “ giá trị số một ” (first quality) khác với lối làm việc “gật gù gật gưỡng” , việc công không phải là việc của ai hết (như Việt Nam chúng ta thường nói “cha chung không ai khóc ” ), nên cứ kéo dài, hết tháng lãnh lương ( Wilson, Interestgroup politics in France, Cambridge 1987, 240).

b- Yếu tố thành công khác cho “ Cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle ” là chính uy tính của “ vị anh hùng dân tộc ” De Gaulle.
- De Gaulle đã cùng quân đồng minh giải phóng nước Pháp, đánh bật đoàn quân Đức Quốc Xã đang chiếm đóng ra khỏi lãnh thổ.
- De Gaulle dẹp loạn đối với đoàn quân đồn trú ở Algérie.
- De Gaulle đưa ra những dự án chấn chỉnh lại lối làm việc không “ hữu dụng ” của các Chính Phủ thời Đệ IV Cộng Hoà với Hiến Pháp 1946.
“ Uy tính cao cả ” ( la grandeur) của vị sáng lập Đệ V Cộng Hoà tạo được niềm tin và đồng thuận của dân chúng.
Do đó mà De Gaulle chiếm đa số trong cuộc bầu cử chọn ông lên làm Tổng Thống và cũng vì vậy mà ông chiếm được đa số trong Quốc Hội.

Ông đã tạo được đa số “ song đôi ” ( couplage), trong cuộc bầu cử Tổng Thống và trong Quốc Hội, nói như cách nói Pháp ngữ ( Grawithz-Leca, “ Les politiques institutionelles”, en Traité de Science Politique. Les Politiques Publiques, Paris 1985, vol IV, 61-69).

Hay nói như thành ngữ Á châu của chúng ta : De Gaulle đã tạo được yếu tố « nhân hòa », ngoài ra yếu tố « Thiên thời » đã được đề cập.

c - Những yếu tố thành công khác nữa cho « cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle » hệ tại ở chỗ bãi bỏ những cơ chế cũ, không hiệu dụng cho bằng những cơ chế mới, với lối cấu tạo quyền lực Quốc Gia theo kiều mới, tạo được niềm hứng khởi nơi dân chúng (Molino, « Consolidamento democratico : definzione modelli », in Riv. Italiana di Scienza Politica, 1986, n. 2, 197-238).

- * sự thay đổi vai trò của Tổng Thống.

Vị Tổng Thống trong Đệ V Cộng Hoà, thay vì được Quốc Hội Lưỡng Viện bầu ra ( do đó tùy thuộc vào Quốc Hội), được Ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống tuyển chọn ( hay nói cách khác, được dân chúng bầu cử gián tiếp ) như vị Tổng Thống trong Tổng Thống Chế, theo tinh thần Hiến Pháp Philadelphia 1787 của Hoa Kỳ.

Và Tổng Thống De Gaulle còn đi xa hơn.
Năm 1962, giải thích một cách thích ứng hay gượng gạo điều 11 của Hiến Pháp về việc Tổng Thống

“ có quyền quyết định trưng cầu dân ý đối với các luật cơ bản liên quan đến việc tổ chức công quyền ”,

ông cho rằng chức vụ Tổng Thống cũng là một cơ chế của công quyền, nên tự ý đứng ra quyết định trưng cầu dân ý và được dân chúng đồng thuận bãi bỏ Ủy Ban Tuyển Cử Tổng Thống, chọn ông là vị Tổng Thống đầu tiên của Đại Nghị Chế được cuộc phổ thông đầu phiếu tuyển chọn, vượt hẳn vị thế của vị Tổng Thống trong Tổng Thống Chế Hoa Kỳ.
Do đó mà Gs Duverger gọi cơ chế của

“ cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle ” là cơ chế “Thượng Đẳng Tổng Thống Chế” (Ultra-présidentialisme) ( Duverger, L’Eternel marais. Essai sur le Centrisme francais, en Revue francaise de Science Politique, 1964, n. 1, 33).

Nhưng cũng do việc Tổng Thống không do Quốc Hội bầu ra, hơn nữa cũng không do dân chúng gián tiếp bầu ra (đáng ra do Ủy Ban Bầu Cử Tổng Thống, như Hiến Pháp xác định), mà do chính dân chúng trực tiếp chọn qua cuộc phổ thông đầu phiếu, sau cuộc trưng cầu dân ý, Tổng Thống De Gaulle nhân thấy mình mới là người đại diện chính thức và hợp lý hơn cả Quốc Hội.
Bởi lẽ Quốc Hội cũng do phổ thông đầu phiếu lựa chọn ( Hạ Viện), còn Thượng Viện do Ủy Ban Tuyển Cử, nhưng trong Quốc Hội có nhiều thành phần phe phái. Trái lại Tổng Thống được dân chúng trực tiếp lựa chọn trong con người De Gaulle là duy nhứt, tượng trưng cho đường hướng duy nhứt mà Quốc Gia muốn !
Do đó Tổng Thống có vị thế chính thức và mạnh mẽ để thực hiện đường lối lãnh đạo Quốc Gia, khác với lối « sống qua ngày » của những vị Nguyên Thủ Quốc Gia trước đó.

- * Thay đổi thể thức bầu cử.
Trước khi có « cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle năm 1958… », theo hình thức Đại Nghị Chế, dân chúng Pháp chỉ có việc đi bầu ra Quốc Hội, nhứt là Hạ Viện. Sau đó Quốc Hội bầu ra Tổng Thống. Rồi Tổng Thống chỉ định Thủ Tướng…
Nên sau khi bầu ra Quốc Hội, việc tham chính của người dân được coi là xong chuyện. Có chăng là có thêm bầu cử Hội Đồng Hành Chánh Vùng, Làng Xã…
Đường lối chính trị cũng như « công chuyện đất nước đang ra sao, dường như là những vấn đề xa vời ».
Dân chúng đã vậy, các chính đảng cũng không hơn gì. Với phương thức bầu cử theo đa số tương đối, trong Quốc Hội thành phần nào cũng có tiếng nói. Nhưng có tiếng nói cũng như không, vì hằng trăm tiếng nói lẻ tẻ, tượng trưng cho hằng trăm khuynh hướng, không tạo được sức mạnh để đưa đến quyết định.
Do đó mà công việc của Quốc Hội đễ hướng dẫn đường lối chính trị Quốc Gia trong Đại Nghị Chế dường như lúc nào cũng bị bế tắc ( khác với thể thức bầu cử vừa đơn danh, vừa theo đa số tỷ lệ, lá phiếu được vót lại và mức cản 5% của Cộng Hoà Liên Bang Đức, Cf. LUẬT BẦU CỬ CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC).
Và sự bế tắc của Quốc Hội đưa đến việc quyết định chạm chạp của Chính Phủ đối với nhiều vấn đề thúc bách của đất nước cần giải quyết.

« Cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle năm 1958… » một mặt đưa ra hai chu kỳ bầu cử : bầu cử Tổng Thống và bầu cử Quốc Hội.
Thể thức bầu cử cũng thay đổi, từ đa số tuyệt đối với đơn vị bầu cử theo thể thức đơn danh và đầu phiếu hai lần, nếu lần đầu không ứng viên nào đạt được hơn 50% số phiếu (lần thứ hai với thể thức « lưỡng hỗ tranh hùng »).
Điều đó bắt buộc dân chúng phải chọn lựa : ủng hộ hoặc chống lại Tổng Thống, ủng hộ hoặc chống lại Chính Phủ.
Thái độ nầy, bắt đầu từ dân chúng, sẽ còn tạo ảnh hưởng đến thể thức hành động của các đại biểu ở Quốc Hội : « chuẩn y » hay « bác bỏ » các đạo luật mà Chính Phủ yêu cầu Quốc Hội cứu xét.
Thành phần thứ ba « đồng ý , nhưng mà… » sẽ không còn đất dụng võ.

Đàng khác,
- Hiến Pháp của « cuộc cải cách của Đại tướng De Gaulle » cũng « làm nhẹ đở gánh nặng cho Quốc Hội », bằng cách hạn chế nhiều lãnh vực, trong đó Thủ Tướng có thể tự mình đưa ra « nghị định » và « sắc lệnh », rồi thi hành, nếu trong vòng 24 tiếng đồng hồ Hạ Viện không có điều gì « trách cứ », dĩ nhiên là phải « trách cứ với đa số tuyệt đối » ( trên 50% thành viên Quốc Hội) (điều 49).
- Và cũng để « làm nhẹ bớt » hơn nữa gánh nặng của các dân biểu, khỏi phải bàn cải lâu dài, điều 43, đoạn 3 của Hiến Pháp 1958, Chính Phủ có quyền « đình chỉ bỏ phiếu » để loại hết các « tu chính án » của các nghị sĩ « làm kéo dài thời gian ».
- Cũng vậy, điều 40 : Quốc Hội cũng phải khỏi bận tâm lo lắng về các vấn đề tài chính, ngân qủy chi thu, vì đó thuộc lãnh vực « dành riêng cho Chính Phủ » lo.
- Còn nữa, điều 34 cho Tổng Thống có quyền yêu cầu Hội Đồng Bảo Hiến tuyên bố là đạo luật Chính Phủ đưa ra không được đem ra bàn cải thêm nữa ( impossibilité a procéder), mà phải đem ra áp dụng nguyên văn như chính phủ trình bày.

Như vậy làm dân biểu của Đệ V Cộng Hoà thật « khoẻ re ».
Vai trò của Quốc Hội trong Bán Tổng Thống Chế Pháp Quốc đang bị khủng hoảng, cùng với mức độ song song và ngược chiều với việc lên thang của chức vụ Tổng Thống và nồng độ « hiệu năng » của Chính Phủ.
Đến nỗi nhiều vị dân biểu coi phận vụ của họ như chỉ để làm môi giới giữa « thân hữu cử tri » và cơ quan Chính Quyền ( Redeyllet, « le commun de mandat », en Revue de Droit Public et de la Science Politique, 1979, n. Mai-Juin, 693-768).

Tục ngữ Ý có câu : « Mỗi hành vi phản kháng đều hàm chứa một tác động quá lố !» (Ogni reazione comporta una esagerazione !).
Và tổ tiên người Ý, những người La tinh, từ ngàn xưa đã dạy cho chúng ta một thái độ khôn ngoan: “Đức độ đứng ở vị thế trung dung” ( Virtus in medio stat).

Nêu lên hai câu tục ngữ trên để chúng ta suy ghĩ về “ Cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle năm 1958…”, đối với Đại Nghị Chế của nước Pháp, được đâm rể từ thời Cách Mạng 1789.

d - Tổng Thống và Thủ Tướng chung cư hay “ Lưỡng đầu chế của Hành Pháp”.

Trong suốt 11 năm lãnh đạo, cũng như đệ nhứt nhiệm kỳ của Tổng Thống Mitterand, cả De Gaulle lẫn Mitterand đều có thể dựa vào tình thế “đa số trong việc đắc cử Tổng Thống cũng là đa số nghị sĩ thân Tổng Thống trong Quốc Hội ”.

Khác với Tổng Thống Chế, thường thường Bán Tổng Thống Chế khó mà có được đa số, nhứt là đa số nghị sĩ trong Qưốc Hội đều là đảng viên của phe thân Tổng Thống.

Thường thì đa số đó là đa số liên kết các chính đảng với nhau. Tinh thần liên kết các chính đảng với nhau, cũng như “ lòng ngưỡng mộ ” đối với Tổng Thống trong Bán Tổng Thống Chế do đó có thể thay đổi ( Cole, The Presidential Party and the Fifth Republic”, in West European Politics, 1993, n.2, 49-66).

Uy thế của vị anh hùng Tổng Thống De Gaulle và sự liên kết của các phái tả (đảng xã hội và đảng cộng sản trong nhiệm kỳ I của Tổng Thống Mitterand) đã làm cho uy quyền của hai vị Tổng Thống Đệ V Cộng Hoà trên đa số trong Quốc Hội là uy quyền không ai có thể chối cải được.
Trong khung cảnh “ trên thuận dưói hòa ” đó, các nghị sĩ có thái độ “ kính trọng và trìu mến với Tổng Thống”, cũng như tạo được bầu khí hòa nhã và liên đới sâu đậm với nhau trong Quốc Hội.

Đàng khác, “ một mối liên hệ tình cảm giữa Tổng Thống và Thủ Tướng cũng làm cho mọi người thấy được” ( Duverger, Bréviaire de cohabitation, op. cit., 42).

Trong nhiệm kỳ 2 của Tổng Thống Mitterand , sự liên kết của tả phái không còn chặt chẽ như trước, cũng như dưới thời của Tổng Thống Pompidou, đảng thân Tổng Thống chỉ chiếm được thiểu số trong Quốc Hội,

“ sự vâng phục của đa số đối với Vị Nguyên Thủ Quốc Gia không còn có mối tình cha con như những năm 1962-1969 nữa” ( Duverger, op. cit., id.).

Tình nghĩa “ cha con ” đã thay đổi, thì thái độ chính trị “ tùy thuộc đẳng cấp ” cũng đổi thay.

Hầu như cứ mỗi nhiệm kỳ 7 năm củaTổng Thống, luôn luôn có 2 Thủ Tướng kề vị nhau.
Vị Thủ Tướng đầu tiên là một nhà chính trị lỗi lạc, cùng đảng phái với Tổng Thống, được Tổng Thống tuyển chọn để đi song đôi sát cánh với ông, ngay cả trước khi được tuyển chọn làm Tổng Thống, với mục đích nhờ uy thế của “đứa con cưng và lỗi lạc”, mà ông cũng sẽ được chọn chăng.
Và sau khi đưọc tuyển chọn, nhà chính trị lỗi lạc đi song đôi với Tổng Thống để cho quốc dân thấy được đường lối chính trị tuyệt vời của Chính Phủ do ThủTướng “ cưng ” lãnh đạo là cái nhìn chính trị lỗi lạc của Tổng Thống.

Nhưng thời gian 7 năm bắt đầu trôi qua, nhứt là vào khoản thời gian năm thứ 4 hay thứ 5, với viễn ảnh cho cuộc tái cử Tổng Thống cho nhiệm kỳ tới, hình ảnh của vị Thủ Tướng có đường lối chính trị lỗi lạc là một chướng ngại vật “ cồng kềnh ” cho bước đường vinh quang sắp tới.
Chương trình chính trị lỗi lạc của Thủ Tướng không còn “ hợp ” với tư tưởng của Tổng Thống nữa.
Sự hiện diện của vị Thủ Tướng lỗi lạc làm lu mờ hình ảnh của vị Tổng Thống tối cao, nhứt là mãi đến lúc nầy, chương trình chính trị của Thủ Tướng đều được đa số trong Quốc Hội tán đồng.
Thủ Tướng “ cưng ” trong quá khứ có thể là “đối thủ nguy hiểm cho tương lai ”.
Do đó vào năm thứ 5, Tổng Thống cần giải nhiệm vị Thủ Tướng “ cưng và lỗi lạc ” càng sớm càng tốt, để thay vào đó trong 2 năm còn lại “ người của Tổng Thống ”, thường là vị Thủ Tướng “ chuyên viên ”, hơn là người có đường lối chính trị giỏi, thấy xa hiểu rộng cho đất nước.

Tình đời là vậy, ngay cả trong chính trị, nhứt là trong chính trị!

Những danh tánh De Gaulle; Pompidou, Mitterand đi liền với những vị Thủ Tướng Debré, Charban-Dalmas, Chirac, Mouroy, Rocard và những “ chuyên viên” như Couve de Mouville, Barre, Fabius, Bérégovoy đã chứng minh cho điều chúng ta vừa đề cập ( Giovanelli, Aspetti della V Repubblica, da De Gaulle a Mitterand, Giuffré, Milano 1983, 222s)!

Trường hợp mà chúng ta vừa đế cập giữa Tổng Thống và vị Thủ Tướng “ cưng ” là cảnh thường tình trong gia đình êm ấm, trên thuận dưới hòa, song đôi “ couplage”, nói như người Pháp.

Nhưng thời thế không phải lúc nào cũng “ thuận bườm xuôi gió ” như vậy. Trường hợp “giữa đường gảy gánh” ( découplage) là việc có thể xảy ra trong chính trường.
Điển hình nhứt là nhiệm kỳ 2 của Tồng Thống Mitterand. Tổng Thống Mitterand ( xã hội tả phái) mặc dầu được tái cử, nhưng trong Quốc Hội phe của trung tâm thiên hữu chiếm đa số. Do đó, mặc dầu Tổng Thống có đặc quyền chỉ định Thủ Tướng, nhưng trong trường hợp nầy đặc quyền đó bị giới hạn trong nhiệm kỳ 2 của Tồng Thống Mitterand.

Bởi lẽ Tổng Thống phải chọn một vị Thủ Tướng có khả năng quy tựu đa số trong Quốc Hội ủng hộ, nếu không muốn cho quyền Hành Pháp bị bế tắc. Và quyền Hành Pháp trong Bán Tổng Thống Chế Pháp Quốc, như chúng ta biết, gồm cả Tổng Thống, Thủ Tướng và Nội Các.

Và như ca dao Việt Nam chúng ta: “ Mũi quại thì lái chịu đòn”. Do đó, nếu được trên thuận, dưới hoà, Tổng Thống chọn vị Thủ Tướng tài ba để lãnh đạo Hành Pháp cho kết quả hầu “ rạng mặt nở mày với thiên hạ ”.
Trái lại trong trường hợp không “ thuận bườm xuôi gíó”, Tổng Thống cũng phải cố “ ngậm bồ hòn ” chọn vị Thủ Tướng thuộc “ phía đối lập”, miễn sao cho con thuyền Hành Pháp không bị vướng vào bãi cạn bị “ thiên hạ dèm pha chê cười ”.

Đó là trường hợp quyền hạn của vị Tổng Thống tối cao như:
“ Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường” ( Chinh Phụ Ngâm).
( Escarras, “ Da una presidenza assoluta, ad una presidenza dimezzata”, in Politica di diritto, 1986, n. 4, 627-672).

Và chính trong trường hợp quyền hạn của Tổng Thống như “ vầng trăng ai xẻ làm đôi ”, người ta có khuynh hướng trở về văn bản nguyên thủy của Hiến Pháp 1958.
Tiêu biểu cho trưòng hợp nầy là nhiệm kỳ 2 của Tổng Thống Mitterand tả phái, bị bắt buộc “ bất đắc dĩ ” phải chọn ông Chirac, trung tâm hữu phái làm Thủ Tướng.
Từ đó quyền Hành Pháp thành “ lưỡng đầu chế ” ( bicéphale), có khuynh hướng khác biệt, nếu không muốn nói là đối nghịch.

Ý thức được nguồn gốc chính danh và hợp pháp ( légitime et légale) của Thủ Tướng và Nội Các Chính Phủ phát nguồn từ Quốc Hội chớ không phải từ Tổng Thống (Đề Mục III và nhứt là điều 49), vừa khi được nghị định của Tổng Thống công bố thành phần Nội Các Chính Phủ, Thủ Tướng Chirac cùng toàn thể Nội Các do ông lãnh đạo đến trình diện trước Hạ Viện, mặc dầu Hiến Pháp không bắt buộc việc bỏ phiếu tín nhiệm Chính Phủ của Hạ Viện, trước khi Chính Phủ chính thức nắm lấy quyền hành điều khiển Quốc Gia, như các Hiến Pháp Đại Nghị Chế nguyên thủy.

Hành động trên của Chính Phủ Chirac không có ý muốnn nói lên toan tính của Chính Phủ tái tạo lại uy thế của Quốc Hội Đại Nghị Chế, mà là một sứ điệp gián tiếp gởi đến Tổng Thống Mitterand, rằng :

“ Chính Phủ cũng có quyền chính danh và hợp pháp của mình để hành xử quyền lực Quốc Gia như Tổng Thống, vì Chính Phủ cũng được chính quốc dân ủy thác cho quyền hành xử đó, với tư cách là đại diện của dân trong thể chế Dân Chủ Đại Diện (Đề Mục I), một cách gián tiếp qua các vị đại diện của dân là Quốc Hội. Do đó chỉ có Quốc Hội mới có quyền thu hồi quyền bính, lật đổ Chính Phủ chớ không phải Tổng Thống. Nếu không, Tổng thống có thể bị truy tố là vi hiến, lạm quyền, trong “ mưu toan bất chính ” ( Cohendet, La cohabitation, Lecon d’une expérience, Paris, 1993, 100-134).

Với hành động trên, Thủ Tướng Chirac cũng muốn hành động vững thế, bằng cách trở về nguồn của Hiến Pháp 1958:

- Điều 5: Hiến Pháp giao cho Tổng Thống quyền “trọng tài ”.
- Trong khi đó điều 20: Hiến Pháp giao cho Thủ Tướng “ nhiệm vụ hướng dẫn và thi hành đưnờg lối chính trị Quốc Gia ”.
-
Nhắc lại cho Tổng Thống Mitterand hai điều khoản trên, một cách gián tiếp Thủ Tướng Chirac đã thuyên chuyển quyền Hành Pháp từ điện Elisée ( dinh Tổng Thống) đến khách sạn Hotel Martignon ( dinh Thủ Tướng và là trụ sở của Chính Phủ), nói lên ý hướng người có thực quyền Hành Pháp là Thủ Tướng Chính Phủ, chớ không phải Tổng Thống, mặc dầu từ lâu “ uy thế cao cả (la grandeur) của người hùng De Gaulle ” và sự liên kết của tả phái ( xã hội và cộng sản) trong nhiệm kỳ 1 của Tổng Thống Mitterand đã tạo thời cơ cho Tổng Thống làm lu mờ ý nghĩa rõ ràng của Hiến Pháp ( Cohendet, La cohabitation, op. cit., id.).

Về phía Tổng Thống, như chúng ta đã bàn đến ở phần đầu của bài viết, Hiến Pháp còn dành nhiều quyền hạn khác, chớ không phải chỉ hạn hẹp ở điều 5, nơi nương tựa cho các lý luận của Thủ Tướng Chirac.
- Ngoài ra việc chỉ định hay thu hồi chức vụ Thủ Tướng (điều 6), lợi thế bị mất đi phân nửa hiệu nghiệm trong trường hợp “đa số bất song đôi ” ( découplage) như chúng ta đã bàn ở trên,
- Tổng Thống cũng có quyền đua ra trưng cầu dân ý (điều 11), nhưng ở đây, cũng như ở điều 8, sáng kiến đưa ra trưng cầu dân ý phải được sự đồng thuận của Quốc Hội Lưỡng Viện và Hội Đồng Nội Các, ngoại trừ trường hợp năm 1962, Tổng Thống De Gaulle giải thích miễn cưỡng điều 11, bất cần đồng thuận hay phản đối của bất cứ ai, dựa vào uy tính là “ người hùng ” và “ vị cha chung sáng lập” ra Bán Tổng Thống Chế.
- Hiến Pháp cũng dành cho Tổng Thống quyền gửi thông điệp đến Quốc Hội (điều 16),
- quyền giải tán Hạ Viện sau một năm hoạt động (điều 12).

Trên thực tế, Cố Tổng Thống Mitterand là một chính trị gia lỗi lạc và khôn khéo, nên ít khi dùng các điều khoản trên, là những điều khoản có “ kết quả quá trắng trợn và lộ liễu ”, việc hạ bệ Thủ Tướng, giải tán Quốc Hội, trưng cầu dân ý là những hành động có kết quả rầm rộ, ai cũng thấy được.
Người ta có thể mất thiện cảm với Tổng Thống là nhà độc tài, như “ kỳ đà cản mũi ”, “thọc gậy bánh xe” vào chuyện chính trị của đất nước.

Trong âm thầm Mitterand dùng quyền ấn ký hay bác bỏ những nghị định và sắc luật của Chính Phủ, đặt mình vào vị thế như phe đối lập với Chính Phủ, làm cho các chương trình của Chính Phủ bị tê liệt, dân chúng mất tin tưởng.

Ông cũng âm thầm bác bỏ việc tuyển chọn nhũng viên chức tên tuổi vào các lãnh vực hành chánh, nhứt là lãnh vực kinh tế làm cho một số chương trình của Chính Phủ trở thành “ không hữu dụng ”, Chính Phủ Chirac khó tháo vác được nền kinh tế của đất nước, sẽ khó mà được dân bỏ phiếu cho kỳ tuyền cử sắp tới ( Poulard, “ The French Double Esecutive and the Experience of Cohabitation” in Political Science Quaterly, 1990, n.2, 234-267).

Đề Mục II cho Tổng Thống đặc quyền về quốc phòng và quyền thương thuyết, ký kết những thoả ước bang giao quốc tế.
Tổng Thống Mitterand những lần đi họp thượng đỉnh quốc tế cũng “ xách ” Thủ Tướng Chirac đi.
Nhưng do thủ tục ngoại giao được Đề Mục II vừa đề cập xác định, chỉ có Tổng Thống Mitterand mới có quyền thương thuyết, còn Thủ Tướng Chirac chỉ có mặt “ cho có lệ ”, “im lặng” như kẻ chẳng biết gì. Điều đó làm tổn thương đến hình ảnh và uy tín của Thủ Tướng Chirac không ít.
Cũng vì lý do đó mà Thủ Tướng Balladur từ chối không tham dự cuộc họp thượng đỉnh của nhóm G-7 ( bảy nước kỷ nghệ nhứt thế giới) được tổ chứcc tại Tokyo năm 1993.

Cuộc sống “ chung cư ” của Hành Pháp “ lưỡng đầu chế ” trong Bán Tổng Thống Chế của “ cuộc cải cách của Đại Tướng De Gaulle năm 1958…”, qua những nhận xét vừa kể, có lẽ trong tương lai sẽ không còn “ cống hiến cho nước Pháp những cơ cấu Quốc Gia hữu dụng nhứt ” như thuở ban đầu, thời gian mà “ người hùng ” của Tổng Thống De Gaulle đã làm cho người Pháp kính trọng và thương yêu ông “ trong tình cha con ”.

Tổng Thống De Gaulle đã ra đi, “ người hùng ” của ông đã từ từ đi vào lịch sử, để lại thừa kế cho nước Pháp vấn đề “ chung cư ” của hai nhân vật chính trong nền Hành Pháp.
Cả hai đều “ chính danh và hợp pháp” để xử dụng quyền lực Quốc Gia.
Cuộc sống “ chung cư ” luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng, bất động, chạm trán hay khủng hoảng.

Nói rõ hơn, từ ngày Tổng Thống De Gaulle mất đi, thể thức Bán Tổng Thống Chế của Đệ V Cộng Hoà bắt đầu đi vào khủng hoảng.

Nhiều đề nghị được đưa ra để canh tân, trong đó có cả đề nghị liên quan đến nhiệm kỳ của Tổng Thống, mỗi nhiệm kỳ chỉ có 5 năm thay vì 7 năm và chỉ được tái cử một lần như trong Tổng Thống Chế của Hoa Kỳ, thay vì quyền được tái cử vô hạn định như Tổng Thống De Gaulle cho ghi vào Hiến Pháp 1958 ( Decaumont, “ Le Quinquenat, l’échéc d’hier, solution demain?”, en Duhamel Parodi, La Constitution de la Cinquième République, Paris 1988, 486-503).

Dù sao đi nữa, nước Pháp cũng có nhiều khối óc lỗi lạc. Chúng ta tin chắc rằng còn có “nhiều cuộc cải cách của Đại tướng De Gaulle…” khác trong tương lai sẽ được cống hiến cho nền chính trị học thế giới và cho những ai trong tâm tư còn mang hoài bảo thăng tiến đất nước của mình với những bài học qúy giá khác.
Chúng ta chờ xem.

III - Một vài suy nghĩ thay lời kết.

A - Đọc lại Hiến Pháp 1958 của Tổng Thống De Gaulle, Hiến Pháp hiện hành của nước Pháp, không biết bạn đọc nghĩ sao? Riêng cá nhân người viết phải rùng mình.
Và sau đây là những lý do :

- Tổng Thống có quyền giải tán Hạ Viện,
- Tổng Thống có quyền chỉ định Thủ Tướng và nếu hiểu theo kiểu “ giải thích cưỡng chế ” (interprétation forcée), cũng có quyền truất phế Thủ Tướng, như vậy, nếu cần lật đổ luôn cả Chính Phủ.

- Tổng Thống có quyền công bố luật đưọc Quốc Hội chuẩn y hay yêu cầu Quốc Hội cứu xét lại ( nói cách khác, Tổng Thống có quyền chấp nhận hay bác bỏ đạo luật đã được Quốc Hội biểu quyết đồng thuận.
- Tổng Thống có quyền ấn ký hay bác bỏ các nghị định cũng như sắc luật của Chính Phủ, chấp nhận hay bác bỏ việc tuyển chọn các nhân viên giữ chức vụ cao cấp trong guồng máy hành chánh.
- Tổng Thống có quyền quyết định đưa ra trưng cầu dân ý , dù cho Quốc Hội có hay không chấp thuận, Tổng Thống vẫn thực hiện, trường hợp năm 1962.
- Tổng Thống có quyền yêu cầu Hội Đồng Bảo Hiến ( gồm 9 thành viên, 3 là người do Tổng Thống chỉ định) tuyên bố về đạo luật không được bàn cải thêm nữa, phải đem ra áp dụng như nguyên bản đã viết ( irrecevabilité ou impossibilité à procéder).
- Trong trường hợp khẩn trương, Tổng Thống được trọn quyền quyết định các biện pháp cần thiết, không cần thông qua ý kiến của ai, miễn là không giải tán Quốc Hội.

Vế phía Tổng Thống đã vậy, còn về phía Chính Phủ:

- Vị Thủ Tướng lãnh đạo Hành Pháp có thể là “ người ” của Tổng Thống.
- Chính Phủ có nhiều quyền hành rộng rãi hơn trong nhiều lãnh vực. Những lãnh vực dành riêng cho Quốc Hội, Quốc Hội cũng chỉ có quyền đưa ra những luật lệ căn bản, còn việc thực hiện những điều của “ các lãnh vực riêng ” đó, do Chính Phủ ra luật. Nói tóm lại, trong các lãnh vực quyền hành Quốc Gia, để hành xử quyền hành trong thực tế, mọi luật pháp đều do Hành Pháp đưa ra và quyết định thi hành.
- Mọi luật lệ được Chính Phủ đưa ra, nếu trong thời gian 24 tiếng đồng hồ, Quốc Hội không tìm ra được đa số tuyết đối để phản kháng, luật lệ sẽ đương nhiên có hiệu lực phải tuân hành.

Người đọc càng cảm thấy rùng mình hơn nữa, khi nghĩ đến trường hợp “đa số song đôi ”, đa số tuyển chọn Tổng Thống và đa số nghị sĩ trong Quốc Hội, Tổng Thống có Thủ Tướng và đa số trong Quốc Hội là “ người nhà ”, với một Hiến Pháp giao quyền cho Tổng Thống cũng như “Chính Phủ có quyền ” như vừa kể, thì Tổng Thống hay chính đảng của Tổng Thống sẽ không có gì khó khăn thâu tóm mọi quyền hành đất nước trong tay. Tình trạng “độc tài hiến định” có thể dễ dàng xảy ra.

Không phải cỉ có nước Pháp với Đệ V Cộng Hoà mới tổ chức Quốc Gia theo Bán tổng Thống Chế, thời gian trưóc đây Đức Quốc dưới thời Hiến Pháp Weimar 1919 cũng áp dụng. Kế đến các nước như Phần Lan ( 1919), Áo ( 1929), Ái Nhĩ Lan ( 1937), Islande ( 1945), Bồ Đào Nha ( 1976-1982) cũng theo Bán Tổng Thống Chế.
Và gần đây, sau khi sau khi chế độ Cộng Sản ở Đông Âu sụp đổ, Ba Lan va Romania cũng theo Bán Tổng Thống Chế.

Nhưng chưa có nước nào “ chơi bảnh” và “ xã láng ” dám giao cho bao nhiêu quyền hành như vậy vào tay một người hay một nhóm người, mà không sợ độc tài.

Người Pháp có thể “ nổi nóng ” chống lại tình trạng bất lực, “ không hiệu dụng ” của Đại Nghị Chế nên “đạp đổ” không cần biết đến hậu quả. Dù cho Đại Nghị Chế đã bảo đảm cho họ dân chủ, “ Tự do, Bình Đẳng và Thân Hữu Hỗ Tương” ( Liberté, Égalité, Solidariété) từ thời Cách Mạng 1789 đến nay chăng?

Có lẽ câu hỏi hàm chứa một phần lý lẽ của nó, như câu tục ngữ Ý mà chúng ta đã có dịp kể ra ở trên: “ Mọi hành vi phản kháng đều hàm chứa một tác động quá lố ”.

Nhưng chúng tôi nghĩ rằng “ hành động phản kháng ” của người Pháp trong trường hợp nầy là “hành động phản kháng có cân nhắc” ( rationalisé).
Và sự cân nhắc đó cho thấy người Pháp có lý.

Trường hợp “đa số song đôi ” không phải chỉ xảy ra dưới thời Tổng Thống De Gaulle, mà còn xảy ra cả ở nhiệm kỳ 1 của Tổng Thống Mitterand, cũng như nhiệm kỳ của Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing.
Vậy mà cả Tổng Thống De Gaulle, lẫn Mitterand và Giscard d’Estaing, không vị Tổng Thống nào trở thành chuyên chế độc tài,
Tại sao?
Chúng tôi nghĩ rằng mấu chốt của vấn đề nằm trong câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi.
Có lẽ câu trả lời của chúng tôi không được một số độc giả tán đồng.
Thật ra chúng tôi cũng không có tham vọng là quyền “ Bách Khoa Tự Điển”, có in sẳn câu trả lời chắc chắn cho độc giả. Chúng tôi chỉ có ước ao là khiêm tốn đưa ra một ý kiến, một giả thuyết và mong được đón nhận những chỉ giáo thêm của mọi người, nhứt là của các bậc đàn anh. Con đường muôn mặt và đa nguyên của chính trị là vậy.

Câu trả lời của chúng tôi rất đơn sơ: “ France, c’est la France!”: nước Pháp là nước Pháp!

Lời nói đó không phải là một câu định nghĩa trùng ý ( tautologie), mà là mọt lời quả quyết nói lên đặc tính của nước Pháp và tính chất của người Pháp.

Nói rõ hơn, nếu người Hoa Kỳ tin tưởng vào “ phân chia quyền lực ” dựa vào phương thức “ kiểm soát và cân bằng ” của họ trong Tổng Thống Chế, thì người Pháp qua cuộc trưng cầu dân ý năm 1958 trao nhiều quyền hành rộng rãi cho Tổng Thống, Thủ Tướng và Chính Phủ mà không sợ độc tài, vì tinh thần dân chủ, “ Tự do, Bình Đẳng và Thân Hữu Hỗ Tương ” dã được viết vào tim óc họ, ít nhứt là từ năm 1789 đến nay: họ, người lãnh đạo Chính Quyền cũng như dân chúng.

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân 1789 là một trong những Bản Tuyên Ngôn đầu tiên của nhân loại nói lên quyền dân chủ và bình đẳng của con người.

“ Liberté, Egalité, Fraternité” được biểu tượng bằng lá quốc kỳ ba màu sắc của nước Pháp, được in trên tiền tệ mà hằng ngày người dân Pháp cầm lấy trong tay để giao tiếp và chung sống với nhau, nói lên tâm thức của họ.
Và cũng trong tinh thần đó, Tổng Thống De Gaulle, Pompidou, Mitterand, Giscard d’Estaing, Chirac đã được sinh ra và lớn lên cùng với mấy cục triệu người dân khác.

Nhiều lần trong một số bài có chủ đề về kinh tế, chúng tôi đã trình bày về tài nguyên và vật chất (nguyên liệu, đất đai, cơ sở , máy móc, tiền bạc) mà Karl marx gọi là “ tư bản ” (capital), chưa phải là yếu tố quyết định cho phát triển kinh tế, mà là “ số vốn nhân thức” ( capital humain).

Cũng vậy trong cách tổ chức Quốc Gia, những kỷ thuật tổ chức ( Tổng Thống Chế, Bán tổng Thống Chế hay Đại nghị Chế), tự chúng chưa có thể đem lại cho đất nước cuộc sống dân chủ, tự do, bình đẳng và văn minh cho người dân.
Nước Pháp hiện là cường quốc. Cường quốc Pháp được đặt trên “ số vốn nhân thức ”, đào tạo trong tinh thần dân chủ, tự do và bình đẳng nói trên.
Trong cái nhìn đó, chúng ta không lạ gì mà Paris của Victor Hugo, J.J. Rousseau, Montesquieu, Descates, Pascal…được khắp thế giới ngưỡng mộ và tặng cho danh hiệu là “Kinh Thành Ánh Sáng” ( Ville de Lumière) hay Kinh Thành của những bộ óc, kiến thức lỗi lạc.

B - Đọc lại lịch sữ Đệ V Cộng Hòa Pháp Quốc, chúng ta thường bị chóa mắt trước

- “ uy thế cao cả” ( la grandeur) của Tổng Thống De Gaulle,
- tài ba lỗi lạc Đại Tướng De Gaulle của quân lực Pháp đã cùng vời đồng minh giải phóng nước Pháp
- những lối cải cách đường lối chính trị và hành pháp đã cống hiến cho nước Pháp “ những cơ chế hữu dụng nhứt , mà nước Pháp chưa hề biết đến kể từ cuộc Cách Mạng 1789 ”,
- đã biến nước Pháp từ một nước thua trận trước du kích chiến của một nước nhược tiểu như Việt Nam ở Điện Biên Phủ, thành một cường quốc với nguyên tử năng và ở vị thế hàng đầu của 7 nước kỷ nghệ nhút thế giới, G-7.
- Nhưng có lẽ không mấy ai còn nhớ ngày 27.4.1969 với 12.007.102 phiếu chống và 10.901.753 phiếu thuận, trong một cuộc trưng cầu dân ý để cải cách thêm một số vấn đề khác, Tổng Thống De Gaulle đã không được dân chúng đồng thuận.
“ Người hùng” của dân tộc Pháp sau đó đã lặng lẽ ra đi, như câu tục ngữ của người Pháp: “ Il faut savoir partir ” ( Cần phải biết giả từ ra đi), khi đến lúc phải ra đi.

Tổng thống sáng chói De Gaulle của nước Pháp đã âm thầm trở vào bóng tối, sau khi đã thốt ra được câu: “ La Patrie est servie” ( Tôi đã phục vụ quê hương ).
Đức tính cao cả ( la grandeur) của bậc vĩ nhân là ở chỗ đó, biết đứng ra nhận lãnh trách nhiệm phục vụ quê hương, mặc cho những khó khăn và hy sinh, nhưng rồi biết âm thầm ra đi, khi biết nhiệm vụ mình đã hết.
Bao nhiêu quyền lực mà mình đã nắm lấy trong tay là để phục vụ dân tộc và quê hương, không phải để cũng cố quyền lực, bám lấy quyền lực và địa vị cho bằng được, bằng mọi giá.
Tổng Thống De Gaulle đã biết “ khiêm nhường ” và “ can đảm ” chuyển giao địa vị và quyền hành của Tổng Thống để lặng lẽ ra đi, khi thời điểm của mình không còn nữa, là bài học cho chúng ta, qúy giá hơn cả những điều mới mẻ mà ông đem ra cải cách cho Đệ V Cộng Hoà Pháp Quốc , và Hiến Pháp 1958 còn ghi lại.

Aucun commentaire: